MẠNH KIM
Nghệ-thuật trang-trí
Trước hết phãi kể bàn thờ chánh toàn bằng đá cẫm thạch quý giá, chạm trổ đẹp đẽ, chống đỡ bởi sáu thiên thần, tác phẩm của nhà điêu-khắc Comparat. Bên trên bàn thờ, trước tấm “phông” nhung đỏ, nổi bật một cỗ tượng lớn bằng đá trắng tinh, tạc hình Đức Mẹ Vô Nhiễm, bổn mạng của thánh đường. Chung quanh cung thánh là hàng cửa song sắt kết hoa, do xưởng Lelubez ở Paris chế tạo. Dọc theo các bức tường, có những cửa kính ngũ sắc rất đẹp, họa hình các thánh trong Cựu-ước và Tân-ước, chính giữa và trên cao hết là hình Đức Mẹ Trinh Thai mầu sắc rất dịu dàng. Nghệ thuật của nhà chế tạo đã cho một vài nhân vật thánh có nét mặt của người đương thời: Người ta thấy Đô đốc Lafont trong “vai” thánh Louis; thánh Isidore giống hệt Đức Cha Colombert; còn kiến trúc sư Bourard thì “đồng hóa” với dung nhan thánh François de Sales. Cho hay thời nào cũng có cái ngộ nghĩnh của nó vậy!
Những kính mầu này là tác phẩm của nhà chế tạo Lorin ở Chartres, một tỉnh nổi tiếng lâu đời về nghề họa tranh trên kính ngũ sắc. Tiếc rằng một số những khuôn kính ấy đã bị hư hại vì bom đạn trong thời chiến tranh vừa qua.
Ngoài những phòng nguyện nhỏ chung quanh bàn thờ chính, hai bên hông nhà thờ còn có 14 bàn thờ cạnh đều bằng đá mỗi bàn thờ có một chặng đàng Thánh giá chạm nổi trên đá hoa rất công phu và mỹ thuật. Sau cùng, hai ngọn tháp chứa đựng một bộ chuông hòa âm (carillon) gồm sáu cái, đủ các điệu bổng, trầm, ai, lạc… cân nặng tất cả 28.850 kí-lô, do nhà đúc chuông Bollé ở Mans sản xuất. Mặc dầu nặng như thế, những chuông nầy điều khiển rất dễ dàng nhờ hệ thống đối lực (système de contre-poids) rất khéo léo. Đó có lẽ là bộ chuông lớn nhất Viễn Đông.
Tốn phí bao nhiêu?
Theo những tài liệu đáng tin cậy, trong số đó có tài liệu của Cha Parrel (tạp chí Indochine, số 149, 8-7-1943) thì công việc xây dựng và trang trí tốn không quá 2.500.000 quan thời ấy (không phải sáu triệu như có tài liệu mới viết) tức vào khoảng 500.000 đồng bạc Đông dương nếu tính theo hối xuất chính thức năm 1886 là một đồng ăn năm quan (theo bút tích của Trương Vĩnh Ký).
Giá tiền ấy thực ra cũng không phải là một chi tiêu quá đáng gì. Vả chăng nếu không có một nỗ lực lớn thì làm sao lưu được sự nghiệp lớn: một sự nghiệp mà chính những kẻ chống báng hồi đó cũng phải nhìn nhận là “đẹp đẽ vào bậc nhất ở Viễn Đông”.
Lễ khánh thành
Hoàn tất rồi, ngôi thánh đường được khánh thành long trọng ngày Chúa nhật 11-4-1880. Chiều hôm trước, hồi 5 giờ, có lễ làm phép nhà thờ do Đức Cha Colombert chủ sự. Lần thứ nhất sáu cái chuông hòa điệu ngân vang một phương trời. Thánh Thể Chúa được cung nghinh từ nhà thờ tạm ở đường Nguyễn Du sang ngự ở Thánh đường mới.
Đúng 8 giờ sáng hôm sau, Đức Cha Colombert cử hành Thánh lễ đầu tiên ở nhà thờ Chánh tòa, trước sự hiện diện của Thống đốc Le Myre de Vilers, rất đông quan khách, giáo sĩ và giáo hữu từ khắp nơi kéo về dự lễ. Sau kinh hát “Veni Creator”, Đức Giám mục lên tòa giảng tạ ơn Thiên Chúa và cám ơn tất cả mọi người đã góp công giúp của trong việc xây Thánh đường. Niềm hân hoan tràn ngập mọi lòng người. Kỷ niệm này còn lưu lại nơi tấm bia khắc chữ la tinh để ở bên trái cung thánh.
Đúng một tuần sau, kiến trúc sư Bourard xuống tầu về Pháp. Ông còn có nhiệm vụ mua sắm nhiều đồ trang trí và thờ phượng khác để tô điểm thêm cho nhà thờ.
Mười bốn năm sau (1894) người ta xây thêm hai tháp nhọn nối tiếp vào hai cây tháp vuông, đưa Thánh đường Đức Bà đến chỗ cao nhất Thành phố Saigon.
Bảy mươi chín năm sau (1959) đến lượt thế hệ này đóng góp pho tượng “Nữ Vương Hoàn cầu” ở giữa Công trường Hòa bình, tô thêm vẻ đẹp cao quí cho khung cảnh Nhà Thờ Đức Bà. Là tác phẩm của nghệ sĩ Ý đại Lợi, pho tượng này toàn bằng đá hoa trắng cao 4 thước 60, nặng 8 tấn 500, đặt trên bệ granito đỏ, thay thế cho một bức tượng cất năm 1903 và bị phá hủy năm 1945.
Kể đến di-tích thánh, thì nhà thờ này có xương của chín vị Chân phước Tử đạo Việt nam: Các Á thánh Phan Văn Minh, Lê Văn Gẫm, Đoàn Công Quí, Phê-rô Lựu, Giuse Lựu, Năm Thuông, Phê rô Lộc, Tô ma Thiện và Si mon Hòa.
Ba vị Giám mục Colombert, Dépierre và Dumortier cũng an nghỉ tại đó.
Suýt biến thành rạp hát
Bị công kích từ lúc mới xây, Nhà Thờ Đức Bà hình như còn trải qua một cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng vào những năm cuối thế kỷ XIX. Điều này tôi chưa tìm thấy bút tích nào ghi chép, song được nghe nhiều bậc lão thành kể lại: hồi ấy nhà cầm quyền thực dân phần đông theo Tam điểm bài giáo muốn chiếm đoạt nhà thờ để biến thành Rạp hát lớn, vừa được địa điểm tốt, vừa đỡ tốn cho công quỹ, vì giáo hữu ít, có thể làm nhà thờ chỗ khác nhỏ hơn cũng đủ. Đức Giám mục, các linh mục và giáo hữu đã phải kịch liệt đối phó với mưu mô ấy. Sau cùng nhà cầm quyền phải nhượng bộ bằng cách tổ chức rút thăm. Giáo đoàn không làm sao khác hơn được, đành nhận nguyên tắc rút thăm và hô hào giáo hữu cầu khẩn Đức Mẹ. Đến khi rút thăm thì phần thắng về phía Giáo hội. Lúc ấy nhà cầm quyền mới chịu xây Rạp hát lớn ở đường Tự do, nay là Trụ sở Quốc hội. Đó là kể theo lời tương truyền.
Xưa và nay
Tính từ buổi khánh thành đến nay gần chẵn 80 năm qua, ngôi thánh đường vẫn kiên cố, toàn vẹn, không hư hao gì (trừ một ít tranh kính) và trông vẫn như mới. Có gì sụp đổ thì chỉ là lý luận của nhóm bài xích mà thôi.
“Khi công kích ngôi nhà thờ là điên cuồng”, họ đã lý luận rằng bất quá “nó” chỉ dùng được cho một “ông” Giám mục, ba bốn linh mục, mươi lăm chủng sinh, và vài trăm giáo hữu, thâu góp khắp nơi về mới đủ để dự một buổi lễ lớn (Báo Indépendent de Saigon dẫn thượng). Họ có ngờ đâu, chưa đầy một thế kỷ, chẳng cần ai cổ động trên 500.000 giáo hữu, cùng với 4.000 nữ tu, 1.500 chủng sinh, 1.000 linh mục khắp nước, và mấy chục vị Giám mục trong nước và ngoài nước, đã tựu họp nhau dưới bóng Thánh đường này, tham dự Đại hội Thánh Mẫu toàn quốc dưới quyền chủ tọa của một đặc sứ toàn quyền Đại diện Đức Giáo Hoàng La mã?
Đó là trang sử vinh quang nhất của Nhà thờ Đức Bà (16-18 tháng 2 năm 1959). Vinh quang ấy đã qua, nhưng nó mở đường cho một vinh quang khác sẽ tồn tại mãi với thời gian. Quả thực, để tưởng lệ lòng tín ngưỡng vô biên của Giáo hữu Việt nam biểu lộ trong bốn thế kỷ và riêng trong kỳ Đại Hội Thánh Mẫu, Giáo hội đã phong tặng nhà thờ Đức Bà Saigon tước hiệu cao quí: Vương cung Thánh đường.
Vương cung Thánh đường là gì?
Loan báo tin quan trọng trên đây cho giáo hữu, Đức Cha Nguyễn văn Hiền, Giám mục Saigon, viết trong bức “Thư chung” đề ngày 31-10-1959 như sau: “Trong ba thế kỷ đầu tiên, Giáo hội bị bách hại. Phụng sự được biểu diễn trong các nhà tư, trong hang toại đạo. Đến đời Hoàng đế Constantinô Cả lên ngôi, nhờ lá cờ Thánh giá (labanum) mà vua đã toàn thắng thù địch, nên đã ban sắc tha đạo (312) và dâng cúng nhiều vương thự lớn lao làm nơi thờ phượng. Về sau Giáo hội quen theo kiểu ấy mà xây đền thánh và ngôi đền thờ nào thời danh vì lớn lao, mỹ thuật hoặc có di hài quan trọng các thánh, hoặc một ảnh tượng giáo dân kính viếng đặc biệt, Giáo hội quen tặng cho là “Vương cung Thánh đường”.
Như thế là, với tước hiệu “Vương cung Thánh đường”, nhà thờ Saigon, tuy mới 80 tuổi, đã vượt thời gian để nối tiếp truyền thống các đền thờ lớn sau đời các Thánh Tông đồ vậy. Danh từ này do tiếng Hy lạp là basilikos, có nghĩa là “vương cung”, chuyển sang tiếng La tinh là basilica, tiếng Pháp là basilique.
Trong các Vương cung Thánh đường trên thế giới, chỉ có năm đền thờ được gọi là Vương-cung đại thánh đường (basilica major) tức Vương cung thánh đường bậc nhất, và đều ở giáo đô La mã. Đó là các đền thờ: Thánh Gio an cạnh La-tê-ra-nô Thánh Phê rô, Thánh Phao lô, Đức Bà và thánh Lô-ren-sô ngoại thành. Ngoài ra đều là Vương cung Thánh đường bậc nhì (basilica minor).
Lễ nghi xức dầu đền thánh cử hành long trọng ngày 7 và 8 tháng 12 này nhân dịp lễ Đức Bà Vô Nhiễm bổn mạng nhà thờ và địa phận, chính là để thỏa mãn một điều kiện thiết yếu cho nhà thờ được liệt vào sổ chính thức các Vương cung Thánh đường danh tiếng trên thế giới vậy.
PHẠM ĐÌNH KHIÊM
***
![]() |
Nhà thờ Đức Bà hiện đang được trùng tu (ảnh: Minh Hòa) |
![]() | |
Một góc Nhà thờ Đức Bà (ảnh: Nhật Quang) |
NGUỒN : https://saigonnhonews.com/article-can-promote/nha-tho-duc-ba-sai-gon-qua-mot-bai-bao-cach-day-hon-60-nam/
No comments:
Post a Comment