Đường Hiền Vương (mũi tên đỏ) hẻm vào trường Lasan Đức Minh, đường Hai Bà Trưng (mũi tên xanh) mặt tiền nhà thờ Tân Định.
Một tài liệu khác [3] viết là tiền thân của trường Lasan Đức Minh là trường Thánh Michel (Saint Michel). Điều đáng tiếc là tài liệu này không có viết chi tiết về trường Thánh Michel.Trong tài liệu này, người ta chỉ thấy đoạn văn sau đây :“Ngày 1 tháng 3 năm 1902, một bản khế ước được ký kết giữa đức cha Lucien Mossard , giám mục hiệu tòa Médée, đại diện tông tòa hành xử nhân danh Hội thừa sai địa phận Tây Đàng Trong và sư huynh Ivarch Louis, giám tỉnh miền Đông Dương, hành xử nhân danh Dòng các sư huynh trường Ki-tô, trụ sở tại 27 đường Oudinot, Paris, với nội dung trao cho các sư huynh khu đất và các khu nhà Tiểu chủng viện cũ của Tân Định, bao gồm cô nhi viện, công trình phục vụ trẻ câm điếc và nhà ngoại trú”.
(Phụ chú : Sư huynh Ivarch Louis là hiệu trưởng cuối cùng của trường Collège d’Adran và hiệu trưởng của trường Taberd từ năm 1890 đến 1898. Xem thêm chi tiết trong bài Collège d’Adran vàTrường La San Taberd của cùng tác giả).
Theo tài liệu [4] : “Ba mươi năm sau ngày khai khóa Đại chủng viện Giuse Sàigòn , năm thứ 7 thời vua Thành Thái, trường Tiểu chủng viện An Đức (quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre) chính thức khai giảng đầu năm 1896, thâu nhận được 76 tiểu chủng sinh do Cha Ernest điều khiển. Nhưng nơi đây khí hậu không tốt. Trong vòng một năm các chú bị cúm hai lần, buộc lòng Tiểu chủng viện phải chuyển về Tân Định.
Đầu tháng 8 năm 1898, Đức cha Depierre đã khánh thành cơ sở Tân Định và đặt tên là Tiểu chủng viện Thánh Louis De Gonzague. Tiểu chủng viện này nằm trên một khoảnh đất cao ráo, rộng rãi thuộc viện Pasteur ngày nay.
Tiểu chủng viện Louis De Gonzague Tân Định được 40 chủng sinh, nhưng rồi vì không đủ tài chánh, năm 1901, Đức cha Mossard đành ra lệnh đóng cửa cơ sở này”.
Tài liệu [2] cũng có ghi đoạn văn trên nhưng đã bổ túc thêm một vài chi tiết về trường Thánh Michel : “Đó là trường Saint Michel, trường đầu tiên do các sư huynh Lasan tại khu Tân Định, chú trọng việc dạy nghề cho các trẻ em câm điếc. Trường Thánh Michel (Saint Michel), sở hữu của Hội thừa sai và dưới danh nghĩa Hội này nó được cấp phép, được đặt dưới quyền điều hành tối cao của vị đại diện tông tòa”.
Tài liệu [5] cho biết thêm vài chi tiết khởi đầu của trường câm điếc Tân Định : ” Năm 1900, cách Sàigòn 2 cây số, một ngôi trường được cất bằng tre lá được mọc lên giữa một vườn cây dừa mát mẻ, dành cho những người câm điếc. Các trẻ em học nghề mộc, nghề điêu khắc gỗ, đóng giày cũng như học toán, học đọc, học viết. Một công trình khác dành cho người câm điếc được khánh thành ở Lái Thiêu, sau đó di chuyển về Tân Định (Sàigòn) và các sư huynh lãnh điều hành vào năm 1902. Sư Huynh Giám Tỉnh cũng cho mở lớp dạy nghề trong đó”.
Bằng một họa đồ dưới đây, tài liệu [2] chỉ ra địa điểm tọa lạc của trường câm điếc Saint Michel : Ngôi trường tọa lạc tại khu vực viện Pasteur bao chung quanh bởi đường Pasteur, Nguyễn Đình Chiểu, Công Lý và Hiền Vương. Không tìm thấy tài liệu nào nói về giải thể trường này.
Hai tài liệu [6,7] dưới đây thêm vài chi tiết về trường câm-điếc Saint Michel :
Tài liệu [6] : Trường St Michel dành cho trẻ Câm Điếc (Sourds-Muets) tại Tân Định được mở vào ngày 1 tháng 3 năm 1902.Tháng 7 năm 1904, thì dời về Gia Định và hoạt động đến tháng 7 năm 1909 thì giải thể.
(Chú thích: Địa điểm của trường câm điếc viết trong tài liệu [6] trái ngược lại với địa điểm trong tài liệu [5] : Khánh thành ở Lái Thiêu tương phản Tân Định, chuyển về Tân Định (Sàigòn) tương phản Gia Định).
Tài liệu [7] bổ túc thêm chi tiết sau đây về trường : “Trường câm-điếc Saint Michel khai trương mở cửa ngày 13 tháng 8 năm 1906 và đóng cửa năm 1910.Hiệu trưởng đầu tiên của trường là sư huynh Dominique Joseph”.
(Chú thích : Hai tài liệu [6,7] ở trên tuy không có sự đồng nhất về ngày mở cửa trường câm-điếc Saint Michel nhưng năm đóng cửa trường thì gần giống nhau).
Từ những dữ kiện của các tài liệu trên, sau khi so sánh địa điểm tọa lạc cũng như năm tháng thành lập và đóng cửa của trường Saint Michel và năm tháng thành lập trường École Saint Louis De Gonzague, người ta nhận thấy là trường Saint Michel khó có thể là tiền thân của trường Lasan Đức Minh.
(Mở ngoặc : Theo tài liệu [7], có một ngôi trường là trường nội trú Saint Louis Tân Định được khai trương mở cửa ngày 15 tháng 5 năm 1904. Hiệu trưởng đầu tiên của trường này là sư huynh Aglibert Marie. Từ năm 1920 đến 1925, sư huynh Aglibert Marie đảm nhiệm chức vụ dẫn dắt và điều khiển khu vực công giáo Đông Dương- Việt Nam và Cam Bốt (District de l’Indochine: VietNam et Cambodge). Tiếc thay, tài liệu này không có cho chi tiết về trường nội trú này. Có thể nào trường này là trường Câm Điếc ở Lái Thiêu dọn về Tân Định vào năm 1902 (hay 1904) không ? Nó không thể nào là trường École Saint Louis De Gonzague vì lý do trường này được xây 20 năm sau đó, vào năm 1923 mặc dầu mang cùng tên Saint Louis).
Dưới đây là những mốc lịch sử thành lập của trường Lasan Đức Minh theo các tài liệu [1,3,8] :
Thời kỳ Sáng lập :
Đầu năm 1923, Cha sở Delignon họ Tân Định, muốn mở một trường học và mời các Sư Huynh trường Taberd về điều khiển. Ngài kêu gọi sự ủng hộ của giáo dân, và lời của Ngài đã được đáp ứng cách mau chóng và nồng nhiệt.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 1923, Đức Giám mục Quinton, địa phận Saigon đã chủ tọa lễ khánh thành long trọng ngôi trường mới, tên là École Saint Louis De Gonzague (Xem Phụ đề 2 về Thánh Louis de Gonzague), trường có tất cả 6 phòng : 3 phòng tầng trệt và 3 phòng lầu trên. Mặt khác, tài liệu [6] viết rằng Lasan Tân Định được khai trương vào ngày 17 tháng 09 năm 1923. Trong khi đó theo tài liệu [7], ngày khai trương là ngày 07 tháng 09 năm 1923. Theo tài liệu [1,7], thì hiệu trưởng đầu tiên của trường là sư huynh Ildephonse (?) Lộc.
Thời kỳ phát triển ban đầu :
Nhà trường bắt đầu khai giảng với 4 lớp tiểu học và 120 học sinh. Từ đó số lớp cũng như số học sinh gia tăng không ngừng.
Ba năm sau, là năm 1926, trường mở thêm lớp Nhứt (lớp 5 ngày nay). Cuối năm kết quả kỳ thi bằng tiểu học đầu tiên là 12/14 (84%).
![]() La 1re classe de Tan Dinh |
![]() La 2e classe de Tan Dinh |
![]() La 3e classe de Tan Dinh |
![]() La 4e classe de Tan Dinh |
Năm 1931, số học sinh lên tới 320.
Năm 1945 vì tình hình bất ổn nên nhà trường tạm ngưng hoạt động. Tân Định hồi đó là ngoại ô Saigon, yên tĩnh và an ninh bảo đảm hơn nên các sư huynh Taberd Sàigòn, với sự thỏa thuận của Cha Sở đã đến tạm cư gần một năm tại đây.
Năm 1946, sinh hoạt trở lại bình thường, học sinh ồ ạt kéo về trường cũ.
Năm 1948, trường Louis De Gonzague mừng Lễ Kỷ niệm 25 năm thành lập. Năm đó số học sinh lên tới 700.
Năm 1951, tựu trường ngày 3 tháng 9 : Cũng như các năm trước, các lớp đều đầy học sinh. Ngày đầu tiên sĩ số học sinh là 714 em. Có một chút thay đổi trong tổ chức trường lớp : có hai lớp cours supérieur (lớp nhất chương trình Pháp) và hai cours moyen (lớp nhì chương trình Pháp) thay vì một lớp nhất và 3 lớp nhì như năm ngoái.
Năm 1952 , trường có nhiều sự kiện rất đáng ghi nhớ :
Trường École Saint Louis De Gonzague được đỗi tên là Lasan Đức Minh, để tưởng niệm đến Thánh Tổ phụ lập Dòng và Á Thánh Tử đạo Phillipe Minh (Xem Phụ đề 3 về Phillipe Phan Văn Minh). Nhưng tài liệu [3] lại viết rằng : ” Ngày 3 tháng 9 khai giảng niên khóa 1954-1955 của trường La san Đức Minh (tên mới của trường thánh Louis Tân Định)”.
Vào năm này, trường Lasan Đức Minh khánh thành ban trung học.
Ngày 9 tháng 9 năm 1952 : Sân chơi mới có mái che được khánh thành. Từ nay, khi trời mưa trong giờ ra chơi, các học sinh có nơi trú ẩn an toàn. Chính các cựu học sinh đã quyên góp kinh phí để xây dựng sân chơi này.
Ngày 10 và 11 tháng 11 năm 1952 : Trường ăn mừng lễ 300 năm ngày sinh của Thánh Gio-an La San (St Jean Baptiste de La Salle) , đấng sáng lập dòng La San. Chiều thứ bảy ngày 10 tháng 11, một buổi văn nghệ đặt dưới sự chủ tọa của sư huynh giám tỉnh Cyprien, biểu diễn cho các học sinh, cho phụ huynh của các em và cho các ân nhân của Trường xem. Sáng Chúa nhật ngày 11 tháng 11, trước khi thánh lễ trọng thể được cử hành tại nhà thờ họ Tân Định, trường tổ chức một cuộc kiệu tượng thánh Gio-an La San phát xuất từ sân trường ra đường Mayer (Hiền Vương), quẹo sang đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) và tiến vào nhà thờ (Xem Phụ đề 4 về Khu vực chung quanh trường Lasan Đức Minh).Đoàn kiệu gồm rất đông giới trẻ, ngoài sự hiện diện của toàn bộ học sinh của Trường, còn có sự hiện diện của phái đoàn các nữ sinh của trường bạn láng giềng do các nữ tu Saint Paul de Chartres điều hành, phái đoàn những phong trào trẻ học đường của trường Taberd và của các xứ đạo chung quanh. Đây quả là lần đầu tiên, kể từ năm 1945, người ta chứng kiến được cảnh một đoàn kiệu của phía Công giáo trên công lộ của khu vực quanh giáo xứ Tân Định.
Năm 1955 :
Ngày tựu trường được ấn định vào ngày 2 tháng chín. Trong niên học mới, trường mở thêm lớp 5è moderne thứ hai và một lớp 3è. Như vậy trường có tất cả 16 lớp dù chỉ có 12 phòng học. Để giải quyết vấn đề thiếu phòng ốc, 8 lớp bậc trung học cũng học 2 buổi nhưng được chia ra như sau : Các lớp A, sáng học từ 7 đến 9g00 và chiều từ 14 đến 16g00 ; các lớp B sáng học từ 9 đến 11g00 và chiều học từ 16 đến 18g00. 8 lớp tiểu học thì học hai buổi như thường, tức là sáng từ 7 đến 10g00, chiều từ 14 đến 17g00. Và để làm theo tinh thần cha thánh Gio-an La San, 2 lớp đầu cấp tiểu học được hưởng qui chế hoàn toàn miễn phí. Điều này làm hài lòng mọi người dân quanh vùng.
Ngày chúa nhật 4 tháng 12, trong một nghi thức hết sức long trọng, giáo xứ Tân Định vui mừng đón chào đức tân giám mục Nguyễn văn Bình, vị giám mục tiên khởi của địa phận Cần Thơ vừa mới được thành lập. Ngài là cựu học sinh của La San Đức Minh và cách đây 45 năm, ngài đã lãnh nhận bí tích thanh tẩy tại ngôi nhà thờ với lầu chuông cao vút này. Sau lễ đón tiếp, một bửa tiệc được tổ chức tại sân trường có mái che của Đức Minh để khoản đãi 200 thực khác gồm những vị nhân sĩ trong vùng và các bạn bè cũ mới của vị tân giám mục.
Năm 1961 :
Vào đầu niên khoá 61-62, số học sinh toàn trường là 1300. Sau đó, vì có một số học sinh trường thi đậu vào các trường công lập, cuối năm sĩ số còn lại là 1275, một con số vẫn còn cao nếu đem đối chiếu với cơ sở vật chất mà nhà trường đang đem vào sử dụng. Tuy nhiên vì là trường đạo duy nhất dành cho nam sinh của họ đạo Tân định, nên khó lòng mà từ chối các học sinh công giáo quanh vùng, nhất là các học sinh cấp tiểu học và cấp lớp đệ thất ! Do vậy chúng ta thấy trước là trong niên khóa 62-63 sắp tới, chắc trường sẽ không tổ chức kỳ thi tuyển chọn học sinh mới, và ngay cả cho học sinh cấp 1 vì các chỗ học sẽ được ưu tiên dành cho các học sinh hiện tại của trường.
Về phương diện cơ sở vật chất, Đức Minh cũng tiến hành nhiều sửa chữa, tu bổ hay làm mới :
– Trước nay, trường chỉ sử dụng điện kế theo kiểu gia đình, không thích hợp cho việc thắp sáng các lớp học cũng như cho hoạt động cao độ trong những ngày lễ hội. May thay, hồi đầu năm (tháng Giêng), công ty điện lực đã giúp bắt một nguồn điện 3 “pha (phase)” (triphasé) với điện kế 30 Ampères đủ sức cho nhu cầu của trường.
– Xây dựng hệ thống nhà vệ sinh với hầm chứa tự hủy theo đúng tiêu chuẩn luật ấn định. Việc này rất tối cần cho số học sinh khá đông.
– Với hảo ý và phép tắc của cha sở họ đạo Tân Định, trường hoàn thành việc dựng lên bờ tường rào ngăn cách trường với nhà in của địa phận. Phòng gác dan được đặt ngay cửa ra vào và cho phép trường được hưởng một sự độc lập tương đối mà từ xưa đến nay chưa có ! Chi phí bỏ ra để xây dựng bức tường được đền bù rộng rãi bởi giá trị khu đất và nhất là vì nó mang lại một sự độc lập về không gian đối với xứ đạo cũng như sự an toàn và vệ sinh, hai yếu tố quan trọng cho mọi nền giáo dục.
– Nhờ sự tử tế của các nữ tu bên trường Thiên Phước, trường Đức Minh sử dụng được hệ thống thoát nước, giúp cho trường giải quyết được cảnh ngập lụt trên sân trường thường diễn ra hàng tuần hay cả hàng tháng trời trong các năm gần đây !
Năm 1961, kết quả trung học đệ nhất cấp lần đầu tiên là 38/48 (79%) tỷ lệ khá cao so với 30% tỷ lệ trung bình ở Sàigòn.
Nhờ sự đoàn kết phối hợp chặt chẽ giữa ban Giám đốc và ban Giáo sư, trường Lasan Đức Minh luôn được phát triển và dần dần hoàn tất thành một trường trung tiểu học với đầy đủ các lớp.
Đoạn văn dưới đây trích từ tài liệu [9] miêu tả cách bố trí phòng ốc của trường Lasan Đức Minh :
“Khi bước vào cổng trường, trước mặt là tượng St Jean Baptiste de La Salle, sau lưng bức tượng là dãy nhà hai tầng, tầng dưới là văn phòng sư huynh Hiệu trưởng trường, và phòng họp của các thầy, cô.
Sau lưng văn phòng của Bề Trên Hiệu trưởng có khoảng đất trống , nơi là chổ rửa tay, rửa mặt, luôn cả uống nước (máy) cho hoc-sinh từ hai khối trụ bê-tông, mỗi trụ bê-tông có 4 vòi nước (máy) được cách nhau 2 thước , mỗi trụ được bao bọc bởi một gờ ( đường nổi lên chạy ven ngoài) cao cở 10 cm, hình vuông chiều rộng 1m5, để giữ không cho nước chảy tràn lan, vì học sinh sử dụng, luôn mở vòi nước mức lớn nhất !
Trường La San Đức Minh, có hai sân : Sân trước và sân sau.
Sân trước, là một sân bóng rổ, thường sân bóng rổ chỉ dành cho các anh lớp lớn chơi trong những giờ được nghỉ học.
Trong sân trước, chạy dọc theo phía tay phải là dãy nhà nơi làm nhà ăn, chổ để bàn ping pong. Phân chia theo chiều dọc của nhà ăn bằng một vách tường, có một ô cửa sổ khá rộng, một cửa ra vào đóng, mở bởi 2 cánh cửa gổ, sơn màu xanh da trời đậm, phía sau bức tường phân chia đó là gia đình của “Anh Bếp”( Học sinh hay gọi vậy !), cũng là lối đi phía sau qua nhà thờ (chỉ dành riêng khi các học sinh TCG (?) đi xưng tội vào ngày thứ Sáu hằng tuần, mới được đi lối này).
Dãy nhà này, vừa có bàn ping pong, vừa là nhà ăn trưa của học-sinh bán trú (ngày xưa học hai buổi sáng, chiều), và cũng là nơi để hàng loạt ghế bố xếp chổ nằm nghỉ trưa, chờ học buổi chiều, tổng số ghế xếp nửa nằm, nửa ngồi nhiều lắm, vì các học sinh đa số cư ngụ ở xa trường, do số lượng học sinh ở lại bán trú rất đông, nên các hàng lang của các lớp đều được đặt ghế bố đó. Cuối dãy nhà này là một khoãng đất trống khá rộng, sau này được xây những nhà vệ sinh, thay thế cho dãy nhà vệ sinh cũ phía sân sau.
Nằm giữa hai dãy nhà bên tay Phải và Trái là một sân bóng rổ, đầu sân bóng rổ là chổ để xe cho các thầy, cô (mãi sau này mới có Cô giáo, thời chúng tôi khi học tiểu học thì chưa có).Cuối sân bóng rổ là sân bóng chuyền nằm ngang.Bao bọc xung quanh sân bóng rổ và sân bóng chuyền là sân trống ngang 3 thước hoặc hơn (chưa tính các hành lang của các dãy nhà lớp học, ngang cở gần 1,5 thước).
Phía sân sau, không biết sư huynh nào là người đầu tiên nghỉ ra đem mấy bàn “Đá banh bàn”, mà các học sinh nhịn tiền ăn sáng để được chơi !?
Xin nói tiếp sân sau, một sân dài, chiều ngang rộng cở 7 thước mét, đến giữa sân thì bị dãy phòng vệ sinh nằm sát tường. Khi chưa có nhà vệ sinh mới, để uống nước (máy) và rửa tay chân sau khi gần hết giờ chơi, các học sinh đều tranh giành nhau những vòi nước nằm phía sau văn phòng sư huynh Bề trên Hiệu trưởng, từ hai cột trụ bê tông khối hình vuông, theo chiều thẳng đứng, cao trên 1 thước, mỗi phía bề mặt của cột trụ là có 1 cái ṿi nước bằng đồng (mà bị Tây hóa thường gọi là robinet, nước máy !), đôi khi bị hết nước , nước từ vòi rỉ ra từng giọt, thế là nhiều học sinh kê cái miệng vào để “hút”nước vì khát quá sau buổi “giờ ra chơi”!
Nằm giữa sân trước và sân sau, là dãy nhà hai tầng, tầng dưới là một phòng khá rộng, vừa là chổ cầu thang dành riêng cho các sư huynh ở trên tầng 1, cũng là nơi có thể đi ra phía sân sau, đến chổ phòng đá banh bàn. Dãy tầng dưới là các lớp học đệ Thất (A+B), Lục (A+B), trên tầng 1 là phòng các sư huynh , nhà nguyện, rồi các lớp Đệ Ngũ (A+B), Tứ (A+B). Cuối của dãy nhà là cầu thang cho học sinh các lớp học trên tầng 1.
Mãi đến năm 1966, nhà trường mới mở thêm Trung Học Đệ Nhị Cấp (chỉ có Đệ Tam và Đệ Nhị, chưa có Đệ Nhất), bốn lớp học này (Tam A+B và Nhị A+B), hai lớp nằm sát nhau của dãy nhà phía tay trái khi bước từ cổng trường vào, Tam A rồi đến Tam B, kế là văn phòng giám thị, thư ký, rồi là văn phòng các thầy Đệ nhị cấp.
Phía trên lầu, đi cầu thang nằm phía trước mặt tiền dãy phòng, bước lên là phòng học của Đệ Nhị A, rồi đến cuối là Đệ Nhị B. Sau này được thêm 2 lớp Đệ Nhất ( vào niên khóa 1968-1969). Hai lớp nằm phía sau, cùng tầng lầu của ngôi nhà mà hai lớp Đệ Nhị A+B xây dựng trước”.
Trường Lasan Đức Minh có một cây hoa Phượng rất lớn, gần đó có hai cây Điệp. Bên mé phải của sân ngoài còn có một hàng cây Trắc bá diệp mà thời đó học sinh gọi là “cây thuộc bài” (Tài liệu [10]).
Trường có tới 3 sân bóng rổ, 2 sân nằm ở sân chơi trước ( theo tài liệu [10]) và một nằm ở sân chơi sau, có lẽ đó là một trong những lý do quan trọng mà trường tôi là trường vô địch bóng rổ toàn quốc . (Miền Nam lúc đó có nhiều trường nổi tiếng về môn bóng rổ, nhưng trường tôi là nhất).
![]() |
Đội bóng rổ trường Lasan Đức Minh |
Mùa mưa đến, sân trường như một hồ bơi (piscine), nước ngập đến mép hành lang, nhiều đứa bạn tôi giả vờ té xuống nước và bơi bơi như đang thi đấu ở hồ bơi thứ thiệt. Mái ngói đỏ rêu phong ở dãy lớp Nhì, các con dơi bay qua bay lại và khiến những tiếng rú (giả vờ) tạo những tiếng cười sảng khoái (trong sợ hãi)”.
Dãy nhà mới được xây vào 1972 – Giữa hình là sân bóng rổ
Đến năm 1972 có 14 sư huynh và 120 vị giáo chức đảm đương các lớp hoạt động sáng chiều, với sĩ số học sinh là 3300, từ lớp 1 đến lớp 12. Tỷ lệ đậu Tú Tài năm 1972 là 78%.
Tài liệu [11] : Vào năm 1972, trường Lasan Đức Minh đã mời ông Trần Văn Mỹ, danh thủ bóng bàn, đến để xây dựng phong trào bóng bàn và thành lập đội bóng cho trường để tham gia các giải bóng bàn trong nước và quốc tế.
![]() |
Phòng ping pong |
Đội bóng bàn Lasan Đức Minh đã đạt nhiều thành tích trong các cuộc thi đấu trong nước. Đội đã đoạt được chức vô địch học sinh năm 1973. Đội cũng đóng góp nhiều tay vợt cho đội tuyển Việt Nam tham dự giải bóng bàn trẻ Đông Nam Á được tổ chức vào năm 1974 và đặt nhiều thành tích đáng kể. Trần Tuấn Anh đoạt giải vô địch toàn đội. Giải đơn nam, Hồ Tuấn Hiền lọt vào bán kết trang giải hạng 3.
Năm 1973, trường Lasan Đức Minh kỷ niệm 50 năm thành lập. Dưới đây là vài tấm hình chụp buổi lễ 50 năm trích từ tài liệu [12].
![]() |
![]() |
Các trường bạn tới dự Lễ :
![]() Trường Thiên Phước |
![]() Trường Saint Paul |
![]() Trường Régina Mundi |
![]() Trường Lasan Mossard Thủ Đức |
Các vị hiệu trưởng :
Từ 1930 đến 1944, sư huynh Pierre Quý tiếp tục không ngớt công việc phát triển với khả năng đặc biệt của Ngài. Kỷ niệm của Bề trên Pierre vẫn còn sống động trong họ Tân Định.
Kế tiếp là sư huynh Urbain Lựu. Ngài đã có công kiến thiết thêm phòng ốc nhà trường và phân phối các lớp Nhất (Cours Supérieurs) tùy theo khả năng cho các học sinh dự thi bằng Tiểu học Việt hoặc “Certificat Francais”.
Sư huynh Émile đã thiết lập tường lũy cho khu vực bổn trường được kín đáo và thuận tiện cho việc tổ chức.
Sư huynh Jourdain, từ năm 1951 là vị giám đốc Cộng đoàn các sư huynh riêng biệt của trường, và từ đây Đức Minh được tách rời khỏi Taberd và độc lập tự trị.
Sư huynh Armand tiếp tục công việc với kết quả mỹ mãn trong sự chuyển tiếp từ chương trình Pháp sang chương trình Việt. Ngài chăm lo cho ngôi trường có vẻ sáng sủa và khang trang. Lối cổng vào phía đường Hiền Vương được trải đá tráng nhựa sạch sẽ.
Sư huynh Félicien vị hiệu trưởng kế tiếp sau 6 năm hoạt động với tinh thần sáng suốt và cẩn trọng, đã gây rất nhiều uy tín cho nhà trường cũng như ban giáo chức. Ngài cũng đã kiến thiết thêm phòng ốc để đáp ứng nhu cầu cho học sinh ngày thêm đông đảo.
Với sư huynh hiệu trưởng Élie, ban trung học đệ nhị cấp bắt đầu khai giảng và phòng ốc càng thêm mới mẻ, cao ráo, sáng sủa. Sau Tết Mậu Thân (1968) khi đồng bào tạm cư đã hồi hương, công việc kiến trúc ngôi nhà mới, với 6 phòng lớp, 3 ở tầng trệt và 3 ở tầng lầu, được hoàn tất mỹ mãn.
Sư huynh Gérard Hồ Tấn Phát kế tiếp hoạt động 3 năm. Số học sinh lên tới 3000. Ngôi nhà mới lên thêm một tầng với 3 lớp học. Phòng ở của các sư huynh đã được nới rộng và sửa đổi.
Các cựu học sinh thành danh tiêu biểu của trường Lasan Đức Minh:
- Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình (1910-1995) :Tổng giám mục Tổng giáo phận Sàigòn (1960 – 1995);
- Nhạc sĩ Ngọc Chánh, nhạc trưởng ban nhạc Shotguns nổi tiếng ở Sàigòn.Tác giả của một số ca khúc nổi tiếng trong đó có “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang” và “Bao Giờ Biết Tương Tư” , nhạc trưởng ban nhạc Shotguns nổi tiếng ở Sàigòn, giám đốc trung tâm sản xuất băng nhạc đầu tiên của miền Nam, trung tâm Khai Sáng, bán nhạc lẻ ở ngay ngã tư Công Lý và đại lộ Lê Lợi, Sàigòn;
- Trần Tuấn Anh vô địch bóng bàn quốc gia 10 năm liền .
Tài liệu [2] : Biến cố 30 tháng 4 năm 1975, đã khiến trường phải đóng cửa để làm nơi tiếp nhận các sư huynh từ các nơi về đây lánh nạn. Văn phòng Giám Tỉnh cũng được dời về đây.
Theo chính sách quốc hữu hóa cơ sở giáo dục, trong năm 1975 và những năm tiếp theo toàn bộ cơ sở trường học của Tỉnh Dòng La San Việt Nam phải bàn giao cho nhà nước quản lý và sử dụng.Tỉnh Dòng La San “được giải phóng” hoàn toàn.
Tháng 8 năm 1975, sư huynh Maurice Nguyễn Phú Triều được cử đảm nhận chức vụ Huynh Trưởng Cộng Đoàn và làm hiệu trưởng khi trường khai giảng niên khoá 1975 -1976 vào tháng 9. Đây là niên khoá giao thời, các sư huynh và thầy cô đều mang tâm trạng hoang mang, không biết sẽ phải dạy theo đường lối nào, chương trình nào, mà trong đó có một số nội dung bị cấm. Trong niên khoá này, ngày 9 tháng 12 năm 1975, nhà trường cũng đã phải bàn giao quyền quản trị, trường Lasan Đức Minh sẽ không còn do các sư huynh phụ trách.
Theo tài liệu [13] : Vào thời điểm sau năm 1975, chỉ còn duy nhất 3 cơ sở giáo dục Lasan tiếp tục có ngày Khai Trường mà vẫn có mặt các sư huynh nhưng trong bộ quần áo “đời” và “mới”, quần dài, áo bỏ ra ngoài, chân đi dép lết… Giã biệt tu phụ truyền thống; Áo đen,rabat trắng, giày đen trong ngày đầu năm học. Các cơ sở đó là: Lasan Khánh Hưng Sóc Trăng,Taberd Sàigòn, Đức Minh Tân Định. Nhưng sau ngày ” khai giảng đẹp như mơ” như lời nhận xét của một cán bộ cs, tất cả 3 trường này đều được chính quyền quân quản cho phép (Sic) bàn giao trách nhiệm điều hành và toàn bộ cơ sở vật chất cho nhà nước… Hậu quả: Bề Trên Sóc Trăng được hưu trí , không cần dạy học vẫn có cơm ăn! Bề Trên Sàigòn được nghỉ hưu và tự kiếm cơm ăn. Bề Trên Tân Định được nghĩ hưu non. Vào niên khoá 1976-1977, tên trường Đức Minh bị khai tử để mang tên mới là Trần Quốc Tuấn và chỉ là trường cấp 3, không còn ban Tiểu học và ban Trung Học đệ nhất cấp. Một số ít sư huynh,thầy cô cũ được tiếp tục dạy học. Các học sinh Đức Minh ban Tiểu học và Trung học đệ nhất cấp được chuyển sang học chung với nữ sinh trường Thiên Phước, láng giềng thân cận. Các học sinh vẫn mang danh học trò Đức Minh, khi đến lớp 10 quay về trường cũ.
Sau tháng 4 năm 1975, với diện tích nhỏ hẹp được giữ lại làm nơi cư trú sau khi phải hiến toàn cơ sở trường, các sư huynh cộng đoàn Đức Minh sống rất chật vật, gian khổ, xoay sở mọi cách, mọi hướng, mọi phương có thể xoay. Các hình thức hoạt động dần dần được mở ra, nào là cơ sở học nghề, cơ sở dạy nghề, trung tâm dạy nghề, cơ sở chăm sóc nội trú học sinh…
Các sư huynh vẫn trụ lại tại phần đất của trường La San Taberd, La San Đức Minh. Các sư huynh các nơi tụ họp về vùng Sàigòn nhập vào cộng đoàn Taberd, Đức Minh, Mai Thôn, Phú Thọ. Một số khác phải về sinh sống tại gia đình vì không có hộ khẩu.
Vào ngày 10 tháng 6 năm 1978, nhà cầm quyền lấy trọn 6 trường La San tại Sài Gòn và Gia Định : La San Taberd, La San Đức Minh, La San Hiền Vương, La San Chánh Hưng, La San Mai Thôn và La San Thạnh Mỹ.
Theo tài liệu [13] : Giai đoạn 1975-1990 , phương tiện sinh sống của các sư huynh là lao động là vinh quang.
Thế rồi tên trường mới Trần Quốc Tuấn cũng không thọ quá 3 năm để biến thành một trung tâm dành riêng cho đảng viên cs cho tới ngày nay.
o O o
PHỤ ĐỀ
Phụ đề 1 : Lược sử Giáo xứ Tân Định: xưa và nay
Theo tài liệu [14] : Giáo xứ Tân Định được hình thành từ năm 1861, là một trong các Họ Đạo đầu tiên của Địa phận Tây Đàng Trong.
Tân Định nằm ở khu vực đông dân cư, và là đầu mối giao thông, thuận lợi cho việc làm ăn buôn bán, nên đời sống vật chất của giáo dân ở đây tương đối thoải mái. Giáo xứ Tân Định có diện tích rộng lớn để có thể xây dựng các cơ sở vật chất khang trang phục vụ cho các sinh hoạt tôn giáo.
Lịch sử giáo xứ Tân Định có thể chia làm 5 giai đoạn:
1/ Giai đoạn Hình thành: Từ 1860 – 1874.
2/ Giai đoạn Củng cố và xây dựng: Từ 1874 – 1926.
3/ Giai đoạn Trưởng thành: Từ 1926 – 1945.
4/ Giai đoạn Phát triển: Từ 1945 – 1974.
5/ Giai đoạn: từ năm 1974 – đến nay.
Giáo xứ Tân Định hiện nay có 9 giáo khu, hơn 1000 gia đình với tổng số giáo dân là 6500 người.
Nhà thờ Tân Định :
Nhà thờ Tân Định là một trong những nhà thờ Công Giáo La Mã cổ xưa nhất và quan trọng nhất của Sài Gòn,được xây dựng rất sớm ở Sàigòn, khởi công năm 1870 và khánh thành ngày 16 tháng 12 năm 1876. Tổng thể kiến trúc mang phong cách Gothic kết hợp Roman, pha chút Baroque ở những nét trang trí. Màu sơn hồng và những đường nét hoa văn trang trí màu trắng làm cho toàn bộ công trình nổi bật trên nền trời xanh, tạo một vẻ lộng lẫy và tươi mới. Có thể nói nhà thờ Tân Định là một trong những kiến trúc đẹp nhất thành phố Sàigòn.
Khoảng năm 1863, Cha Wibaux bắt đầu cho xây dựng một ngôi thánh đường mới.
(Phụ chú : Cha Wibaux là người đứng trông coi xây dựng Chủng viện Sàigòn từ năm 1863 đến 1866. Xem thêm chi tiết trong bài Chủng viện (Séminaire) Sàigòn của cùng tác giả).
Trước đây, giáo dân vẫn tụ họp dâng lễ trong ngôi nhà nguyện cũ vách ván, cột gỗ. Ngày 17 tháng 4 năm 1864, nhà thờ Tân Định xây xong. Để đánh dấu ngày trọng đại này, Cha Le Mée đã mời Đức Cha Dominique Lefèbvre đến khánh thành và dâng lễ. Trong buổi lễ có sự hiện diện của Cha Bề trên Wibaux, Cha Croc, Cha Eveillard và Cha Roustant. Nhà Thờ được dâng kính Thánh Đa Minh quan thầy của Đức Cha Lefèbvre, đương kim Giám Mục của địa phận.
(Phụ chú : Cha Le Mée ,tên Việt là Lễ, là người đứng ra phát động việc quyên góp để trả tiền phí tổn xây đan viện Cát Minh Sàigòn. Xem thêm chi tiết trong bài Trường Des filles Françaises (Institution municipale de filles à Saigon) của cùng tác giả).
Trong thời kỳ này đô đốc Lagrandière, lúc đó là Nguyên Soái Nam Kỳ, đồng ý nhượng cho Họ Đạo An Hòa (Tân Định) hai mẫu đất để cất nhà thờ và nhà xứ. Sau đó Họ Đạo có khẩn thêm 36 lô đất khác để cho giáo dân đến ở. Cho đến nay những gia đình công giáo kỳ cựu vẫn còn ở trong khu đất nhà thờ này.
Như chúng ta đã biết, trước đó 10 năm (1864), Cha Le Mée đã cho xây cất một nhà thờ, nhưng ngôi nhà thờ này đã trở thành chật hẹp đối với số giáo dân mỗi ngày một tăng.
Năm 1874, Cha Donatien Éveillard (1835-1883), khởi công xây dựng một nhà thờ mới.
Cha Éveillard phải cực nhọc vất vả trong suốt hai năm 1875 và 1876. Ngài phải vừa đi vận động tài chính, vừa chỉ huy xây cất. Chỉ có một người Hoa là ông A Lộc giúp Cha trong công việc hướng dẫn xây cất. Cha Éveillard trang bị cho nhà thờ một cây phong cầm Rodolphe (tặng phẩm của hai Cha Sơn và Cha Lộc trị giá 1200 đồng + 60 đồng tiền chuyên chở).
Cuối cùng ngôi thánh đường khang trang vững chắc đã thành hình. Ngày 16 tháng 12 năm 1876, Đức Cha Colombert đến khánh thành và dâng Thánh lễ lần đầu tiên trong ngôi nhà thờ mới. Công trình này được dâng kính cho Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Giáo dân rất quý chuộng ngôi nhà thờ mới này, họ siêng năng đến đọc kinh và tham gia Thánh lễ. Đây là phần cốt lõi của Ngôi nhà thờ hiện nay.
Nhà thờ luôn được sửa chữa, nới rộng trong nhiều đợt khác nhau, nhưng không hề xóa đi kiến trúc ban đầu.
Năm 1896, do số bổn đạo tăng nhanh, Cha Ngôn quyết định nối dài nhà thờ thêm hai căn và hai hàng ba có xây tường chung quanh .Công trình này rất tốn kém, nhưng với lòng nhiệt thành và đức tin vững mạnh, Cha Ngôn đã tìm được tiền để xây cất. Ngày 2 tháng 2 năm 1898, công trình hoàn thành, Đức Cha Depierre đến khánh thành trọng thể phần nhà mới.
![]() |
Hình nhà thờ Tân Định xây lại năm 1896-1898 trước khi có tháp chuông |
Từ năm 1926, nhà thờ được nới rộng thêm.
Năm 1929, Cha J.B. Nguyễn Bá Tòng đã nới rộng Thánh Đường, xây dựng tháp chuông cao 52,62 m cạnh đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng).
Trên tháp chuông này có 6 cổ chuông quý :
- 2 cổ chuông do Cha J.B. Nguyễn Bá Tòng tặng;
- 1 cổ do ông Phaolô Luận và bà Hường tặng;
- Cổ thứ tư do ông Tài và ông Long tặng;
- Cổ thứ năm do bà Tư Hiệp tặng;
- Cổ thứ sáu do ông Chức và bà Ý tặng.
![]() |
Hình nhà thờ Tân Định xây lại năm 1928-1929 |
Ngày 6 tháng 1 năm 1929, nhà thờ Tân Định nhận được ba bàn thờ cẩm thạch trị giá 50.000 quan do gia đình ông Francois Haasz và bà Anna Tống Thị Mực dâng. Đây là bàn thờ quý nhất địa phận làm toàn bằng cẩm thạch Ý.
Năm 1949, sườn nhà thờ được chỉnh sửa lại, thay đổi kèo và đòn tay bằng sắt.
Năm 1957, sân nhà thờ được tráng nhựa.
Tháng 12 năm 1976, để kỷ niệm 100 năm xây dựng, nhà thờ được sơn lại, gỡ bỏ các hàng rào sắt. Đồng thời cung thánh cũng được đổ cao hơn, tráng lại bằng đá mài màu xanh cho hợp với các cột chung quanh. Một công trình khác cũng được thực hiện vào thời gian này là sửa và sơn lại tháp chuông, tô lại trần. Với màu hồng đặc trưng, tháp chuông cao vút của nhà thờ Tân Định luôn nổi bật trên nền trời xanh thẳm trông rất đẹp mắt. Tháng 7 năm 1999 và tháng 9 năm 2000, nhà thờ tiếp tục được sơn lại cả bên ngoài lẫn bên trong.
Như vậy, nếu tính từ lúc hoàn thành đợt đầu (1876) cho đến hôm nay (2020), nhà thờ Tân định đã trải qua được 144 năm.
Phụ đề 2 : Thánh Louis de Gonzague :
Theo tài liệu [2] :Thánh Louis de Gonzague sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568 ở Castiglione delle Stiviere, Cộng Hòa Venise, ngày nay là tỉnh bang Lombardie, nước Ý Đại Lợi,con trưởng của Công Tước vùng Castiglione, nước Ý Đại Lợi, ông Ferdinand Gonzague Đệ Nhất. Ngài qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1591 ở La Mã,thọ 23 tuổi.
Ngài đã từ chối quyền con trưởng, quyền nối nghiệp, từ chối cung điện nguy nga , lầu sang gác tía kể cả bao nhiêu cung tần mỹ nữ để vào tu viện Dòng Tên năm 17 tuổi. Để vượt thắng mọi cơn cám dỗ của bản thân, ngài đã quyết định lựa chọn con đường bác ái vì tha. Năm ấy có đợt dịch hạch hiểm nghèo giết chết nhiều người và gây đau đớn bệnh tật cho nhiều người khác. Ngài đã can đảm chăm sóc những bệnh nhân đang cần được giúp đỡ, ủi an trước khi chết.Ngài quên đi dịch hạch là mối nguy cho chính bản thân vì sức truyền nhiễm rất mạnh. Ngài chết vì bịnh dịch hạch ngày 21 tháng 6 năm 1591 khi vừa tròn 23 tuổi.Phải 135 năm sau, tức là vào năm 1726, hồ sơ phong Thánh của ngài mới hoàn chỉnh để được Giáo Hoàng Benedicto XIII phong Thánh và đặt Thành nhân Quan thầy của những người đức khiết tính hay Quan thầy của giới trẻ. Lễ kính ngày 21 tháng 6 hàng năm.
Năm 1923, cha sở họ Tân Định là Delignon và các sư huynh Lasan đã chọn Thánh Louis de Gonzague làm Bổn Mạng cho trường, có lẽ dựa vào chi tiết từ bỏ giàu sang danh vọng để đến với người nghèo khổ bệnh tật của Ngài cũng như Thánh Tổ Gioan Lasan cũng đã sống rất nghèo,sống giữa người nghèo, mang kỹ năng và kiến thức đến cho người nghèo mặc dầu xuất thân từ gia đình rất giàu có.
Phụ đề 3 : Thánh Phillipe Phan Văn Minh
Năm 1828, ông được giám mục Taberd (tên Việt là Từ) nhận vào chủng viện Lái Thiêu. Nhưng chỉ ít lâu, do sắc lệnh cấm đạo 1833 của vua Minh Mạng, chủng viện Lái Thiêu phải giải tán.Thời gian này thầy Minh được theo Cha Taberd qua Thái Lan, rồi đến trọ tại đại chủng viện của Hội Thừa sai Paris ở Penang (Mã Lai).
Thầy có vinh dự được Cha Taberd gọi qua Calcutta (Ấn Độ) để hợp tác với ngài soạn bộ từ điển La Tinh – Việt Nam năm 1838. Khi Cha Taberd qua đời, thầy lại trở về Penang tiếp tục học thần học, các giáo sư và bạn học đều quý mến thầy, một sinh viên xuất sắc, học giỏi và có tinh thần đạo đức.
Thầy Minh được xem là người soạn tự điển đầu tiên của Việt Nam.
Theo tài liệu [17] : Năm 1838, xuất bản tại Calcutta (Ấn Độ) bộ Dictionarium annamitico latinum (Từ điển Việt-La tinh và Từ điển La tinh- Việt) do Cha Taberd và thầy Minh hợp soạn trong 3 năm. Công trình gồm phần Khải luận về Tiểu Từ và Đại Từ (Tractatus de variis particulus, et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia 10 trang), Từ vựng chữ Hán (18 trang), Từ vựng chữ Nôm (111 trang), Từ vựng chữ Hán sắp theo mẫu tự (106 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinae), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticae) (14 trang).
Hết thời gian học tại Penang, thầy Minh trở về nước và được Đức Cha Cuênot Thể truyền chức linh mục năm 1840 tại Gia Hữu.
Sau khi vua Minh Mạng băng hà, Giáo hội được hưởng một thời kỳ an bình dễ chịu hơn. Vua Thiệu Trị lên ngôi tuy không huỷ bỏ những sắc lệnh cấm đạo, nhưng không gắt gao thi hành như trước nữa. Nhờ đó linh mục Minh có thể đi thăm viếng, dạy kinh cho các tín hữu ở vùng Tiền Giang, Hậu Giang. Những làng như Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Búng, Ba Dòng, Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi San… đều còn ghi dấu chân truyền giáo của linh mục . Khi vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, việc cấm đạo vẫn lắng dịu ít lâu. Nhưng sau đó lại trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Sau hai chiếu chỉ tháng 8 năm 1848 và tháng 3 năm 1851, cuộc bách hại đạo Công giáo càng trở nên khốc liệt hơn. Lúc đó, linh mục Minh cùng với một số chủng sinh chuyển xuống Mặc Bắc thay cho linh mục Phêrô Nguyễn Văn Lựu đã chuyển đi Ba Giồng. Ngày 26 tháng 2 năm 1853, quan quân đến bao vây nhà trùm họ vì có một người tên Nhẫn (Bếp Nhẫn) tố cáo ông trùm chứa chấp đạo trưởng, vì trước đó ông Nhẫn này xin tiền linh mục Lựu nhưng không được nên đã đi tố giác với quan. Khi quan quân tra khảo ông trùm họ dữ dội, linh mục Minh liền ra trình diện và tự nhận mình là đạo trưởng. Sau đó binh lính liền trói linh mục Minh cùng với người nhà ông Lựu giải về Vĩnh Long.
Tại đây, quan hỏi linh mục Minh về các linh mục khác và những nơi mà linh mục Minh đã từng ở nhưng không thu thập được nhiều. Những ngày sau, quan dùng nhiều phương kế như hăm dọa, dụ dỗ, tra tấn buộc linh mục Minh phải bước qua thánh giá để bỏ đạo, nhưng linh mục vẫn cương quyết không thi hành. Lúc đó, linh mục Minh mới 38 tuổi lại hiền lành học thức, nên quan muốn cứu linh mục bằng cách linh mục nói miệng là “đã bỏ đạo” nhưng linh mục từ chối đề nghị này. Sau cùng, quan truyền lính giam linh mục tại Tuyên Phong và thảo bản án gửi về kinh đô Huế. Ngày 3 tháng 7 năm 1853, linh mục Phan Văn Minh chịu án trảm quyết tại pháp trường Đình Khao, gần Vĩnh Long. Trước đó, tại pháp trường này có thói quen dọn cho các tử tội bữa ăn cuối cùng trước khi hành hình nhưng linh mục Minh đã từ chối. Thi hài linh mục Minh được an táng dưới nền nhà thờ đã bị đốt ở Cái Mơn.
Phillipe Phan Văn Minh (1815-1853) là một vị thánh tử đạo Việt Nam.
Ngày 9 tháng 12 năm 1960, di cốt của linh mục Minh được dời về nhà thờ Đức Bà Sàigòn trong dịp lễ cung hiến. Giáo hoàng Lêô X suy tôn chân phước cho linh mục Phillipe Phan Văn Minh vào ngày 27 tháng 5 năm 1900. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn linh mục Phillipe Phan Văn Minh lên bậc hiển thánh. Ngày nay, chủng viện Giáo phận Vĩnh Long đã nhận Phillipe Phan Văn Minh là bổn mạng.
Theo lời kể từ sư huynh Jourdain, chính ngài đã đặt trên trường Đức Minh để dâng kính Thánh Tử Đạo Phillipe Minh , là một học trò xuất sắc, cũng là một cộng tác viên đắc lực của Giám Mục Taberd trong công cuộc soạn thảo những Tự Vị Pháp – Việt đầu tiên (Tài liệu [2]).
Phụ đề 4 : Khu vực chung quanh trường Lasan Đức Minh
4.1) Hẻm vào trường Lasan Đức Minh :
Hẻm vào trường Lasan Đức Minh tọa lạc ở số 146 đường Hiền Vương. Hẻm này gần như đối diện với ngã ba đường Hiền Vương và Duy Tân, nơi đây bên góc phải có một trạm xăng.
Bên phải của hẻm là nhà sách Bích Hợp, nhà sách chỉ nhỏ thôi, bán văn phòng phẩm và cho thuê truyện. Xa hơn một chút về phía đường Hai Bà Trưng có trường dạy lái xe hơi Giáp Văn Thập.
Bên trái hẻm, về phía đường Pasteur có hai tiệm nổi tiếng :
- Tiệm phở gà Hiền Vương,
- Tiệm Giò Chả Phú Hương.(Sau năm 1975, tiệm này cũng đã thay đổi rất nhiều. Tiệm này đã bị “chia năm xẻ bảy” thành những căn nhà nhỏ, một căn nhà vẫn còn trưng biển hiệu Giò Chả Phú Hương. Đi quanh khu Tân Định ngày nay ta sẽ bắt gặp rất nhiều cửa hàng giò chả, quán nào cũng ghi “Giò Chả Phú Hương chính hiệu”- tài liệu [18]).
![]() |
Giò chả Phú Hương – năm 1961 |
Hẻm rộng khoảng 3 thước tây, có thể vừa đủ cho một xe hơi nhỏ đi vào tới trường.
Tuy nhiên sau khúc này ,hẻm hẹp lại mà chỉ có xe gắn máy mới đi qua được. Từ lối vào của hẻm này trên đường Hiền Vương, người ta có thể :
1. Hoặc là đi thông qua tới đường Pasteur, nhìn trước mặt là cổng chính viện Pasteur, bên phải về hướng đường Nguyễn Đình Chiểu có nhà may áo dài và đồ cưới Thiết Lập sau đó là quán cà phê Hồng ( quán này đã được kể trong tài liệu [19]), bên trái về hướng đường Hiền Vương nơi đầu hẻm có một trụ phong tên nước bằng xi măng cao dưới một thước có 4 vòi hướng ra bốn bên.
Trước năm 1971, vào buổi chiều tối, xe phở Hoà, gánh hàng cháo gà, gánh hàng trái cây ướp lạnh…được đẩy ra đặt bán trên vỉa hè đường sát bên cạnh trụ phong tên nước . Sau đó chủ phở Hoà dọn vào một căn phố có mặt tiền gần chỗ xe phở.
Sau năm 1975,sát tường tiệm phở Hòa ngày trước, lại có thêm một tiệm phở Hòa thứ hai.Và ở tiểu bang California ,nhiều tiệm phở cũng mang tên phở Hòa được mở ra. Hư hư thật thật, chẳng ai hay biết rõ.
Ở giao điểm của hẻm để lấy lối ra đường Pasteur hay đường Nguyễn Đình Chiểu, có một ngôi mộ nhỏ với một hay hai nấm mồ xây bằng gạch bao bọc chung quanh bởi một vòng tường thắp ,cao khoảng dưới nửa thước. Vào giữa thập niên 1960 , tác giả tài liệu này thường đi xe đạp ngang qua đây và đôi khi nhận thấy là ngôi mộ được quét sơn mới, hay được thắp nhang đèn.
Theo tài liệu [10] : Trong hẻm đi ra đường Pasteur này, có quán bà Sáu bán cơm tấm và sương sáo, hột é. Quán cơm này rẻ mà ngon, chỉ cần tí mỡ hành chan lên, còn nước mắm thì tự do miễn phí , muốn bao nhiêu thì tự chan lấy. Học trò Lasan Đức Minh , đứa nào có tiền thì gọi cơm tấm bì cộng chả trứng, khoảng 2 đồng một đĩa, ăn no.
2. Hoặc là đổ ra đường Nguyễn Đình Chiểu , ngã ba với đường Huỳnh Tịnh Của;
3. Hoặc là đi xuyên ngang một cổng chia cách trường Đức Minh với sân bên hông nhà thờ Tân Định để ra đường Hai Bà Trưng. Tuy nhiên cổng này chỉ mở vào giờ đã được ấn định cho các học sinh đi xưng tội hay vào những dịp lễ lớn như Giáng Sinh.
Đối diện với nhà thờ Tân Định,là trường thực nghiệp tên là Lectason dạy đánh máy chữ và tốc ký, ngày xưa trường này cũng có dạy đánh Morse, tiệm bán kiếng đeo mắt kính Tiên, nhà hòm Vạn Thọ, tiệm giày Tiến Đạt,nhà sách Việt Trí và Tô Bia (nổi tiếng ở Sàigòn, hòm Tô Bia rất mắc chỉ có những nhà khá giả mới mua nổi), Bưu điện Tân Định.
Cùng một bên lề đường với nhà thờ Tân Định : Phía trái là trường nữ sinh Thiên Phước, xa hơn một chút là chợ Tân Định; Phía phải có văn phòng Caritas, tiếp theo là tiệm cà phê Thu Hương, mà mỗi khi có ai viết về cà phê Saìgòn đều luôn luôn nhắc đến tên (tài liệu [19]). Gần cuối đường là tiệm may nổi tiếng Paris Mode ( Hai tiệm này nằm bên phía trái của hình dưới đây).
![]() |
Ngã tư đường Hai Bà Trưng và Hiền Vương-Tường bên phía trái của hình là tường của nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi |
4.2) Cơ sở giáo dục :
Chung quanh trường Đức Minh có nhiều cơ sở giáo dục, y tế và di tích lịch sử đáng được ghi ra, đó là :
Trường Thiên Phước (đường Hai Bà Trưng), trường trung học Nguyễn Công Trứ (góc đường Hai Bà Trưng và Hiền Vương, gần bên trường này có lò bánh mì Poitou nổi tiếng ở Tân Định), trường trung học Les Lauriers (đường Đinh Công Tráng, đối diện có quán Bánh Xèo nổi tiếng , sau năm 1975 còn nổi tiếng hơn. Trên đường này có tiệm hình Duy Hy), trường tiểu học Michelet (đường Lý Trần Quán, trên đường này có Chả Cá Như Ý, chỉ mở cửa buổi tối,khách hàng là những giai nhân tài tử và quan lớn), trường nữ tiểu học Đồ Chiểu, trường trung học Trần Lục (đường Nguyễn Đình Chiểu), trường nam tiểu học Tân Định (đường Huỳnh Tịnh Của), trường Khải Minh và trường nữ sinh Couvent des Oiseaux (đường Pasteur).
4.3) Viện Pasteur Sàigòn :
Viện Pasteur Sàigòn có cổng chính ngó ra đường Pasteur, ba mặt hông trên đường Nguyễn Đình Chiếu, Công Lý và Hiền Vương. Viện này được thành lập vào năm 1891 bởi bác sĩ Albert Calmette (1863-1933) ở Đông Dương Pháp với nhiệm vụ nghiên cứu và bào chế thuốc chủng (vaccin) chống bệnh dại (rage) và bệnh đậu mùa (variole) cho người dân bản xứ. Đây là viện Pasteur đầu tiên trong số những viện Pasteur khác thành lập bởi người Pháp ở ngoài chính quốc. Lúc đầu viện Pasteur được đặt trên dãy lầu nhỏ của bệnh viện Grall .Về sau viện Pasteur này dọn về đường Pasteur, khu Tân Định.
Theo trí nhớ bàng bạc của tác giả tài liệu này, vào khoảng những thập niên 1950,1960 : Sở vệ sinh thành phố Sàigòn và có thể Gia Định hàng ngày đi bắt những con chó chạy rong trên đường phố và mang về gửi ở viện Pasteur. Và khi bị cho cắn, người ta thường vào viện Pasteur để chích ngừa bịnh chó dại. Chính vì thế, người dân goi viện Pasteur là nhà thương thuốc (hay chích) chó.
![]() Viện Pasteur – Cổng chính Thời Pháp thuộc |
![]() Viện Pasteur -Phòng thí nghiệm, nghiên cứu Thời Pháp thuộc |
![]() Viện Pasteur thời Pháp thuộc- Bào chế thuốc chủng cho bệnh lao BCG (bacille Calmette-Guérin) -Bên trái của hình là đại úy bác sĩ Raymond Seys |
![]() Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sàigòn, hình chụp năm 1961 |
![]() Viện Pasteur Sàigòn năm 1966-1967 |
![]() Viện Pasteur Sàigòn sau năm 1975 |
4.4) Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi :
Cổng chính nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi nằm trên đường Phan Thanh Giản và ngó ra đường Mạc Đĩnh Chi, ba hông bên bao bọc bởi đường Phan Liêm, Hiền Vương và Hai Bà Trưng.
![]() |
Cổng chính nghĩa trang vào thời Pháp thuộc |
Theo tài liệu [20] : Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưa còn có tên là Cimetière Européen (nghĩa trang của người Châu Âu) hay nghĩa trang Massiges hoặc Đất thánh Tây theo cách gọi của người Sàigòn. Nghĩa trang này được xây dựng vào năm 1859 ở bên mặt đông đường National nay là Hai Bà Trưng với tổng diện tích là 7,5 mẫu tây. Lúc đầu là nơi chôn cất các binh lính bộ binh, thủy thủ và sĩ quan Pháp trong cuộc chiếm đóng Sàigòn. Ngay từ đầu lúc thành lập nó được hải quân Pháp quản lý.
Những người Pháp đầu tiên được mai táng ở đây gồm có đại úy thủy quân lục chiến Nicolas Barbe (bị chém đầu tại chùa Khải Tường vào 7 tháng 12 năm 1860 – Xem thêm chi tiết trong bài Collège Chasseloup-Laubat- Lycée Jean-Jacques Rousseau- Trung Tâm Giáo Dục Lê Quý Đôn của cùng tác giả), trung tá Jean-Ernest Marchaisse (bị giết tại Tây Ninh vào ngày 14 tháng 6 năm 1866) và đại úy Savin de Larclauze (cũng thiệt mạng tại Tây Ninh trên 7 tháng 6 năm 1868); nhà thám hiểm sông Cửu Long Captain L. Doudart de Lagrée (qua đời ngày 12 tháng 3 năm 1868 trong khi dẫn đầu một cuộc khảo sát địa lý và thăm dò của sông Cửu Long sang Lào và Trung Quốc) và trung úy Francis Garnier (chết ngày 21 tháng 12 năm 1873 tại Hà Nội). Năm 1895, nghĩa trang chứa 239 ngôi mộ quân sự.
Cuối thập niên 1860, thường dân bắt đầu được chôn cất ở đây vì trong những năm đầu của thuộc địa, tỷ lệ tử vong do các bệnh nghiêm trọng như dịch tả, sốt rét, ký sinh trùng đường ruột và kiết lỵ rất cao .
Năm 1870, nghĩa trang được đổi tên là vườn của cha Ormoy tức là bác sĩ trưởng Lachuzeaux d’Ormoy (1863-1874) đưa các người bệnh nặng đến đây để chăm sóc các luống cỏ và vườn hoa.
Năm 1880, nghĩa trang được chuyển cho văn phòng bảo tồn nghĩa trang thuộc một phần của văn phòng sở vệ sinh Sàigòn trụ sở số 67 đường Massiges (hiện nay là đường Mạc Đĩnh Chi).
Từ cuối thế kỷ 19, các tiêu chuẩn về vệ sinh được cải thiện và thuộc địa phát triển thịnh vượng, nghĩa trang của người Châu Âu đã trở thành nơi an nghỉ cuối cùng của các chính trị gia thuộc địa và các quản trị viên, trong số có kiến trúc sư Marie-Alfred Foulhoux (1840-1892) và thị trưởng thành phố Sàigòn Paul Blanchy (1837-1901).
Đầu thế kỷ 20, nghĩa trang được chia cắt thành những con đường nhỏ có trồng cây và kiểng do các nhân viên của thảo cầm viên Sàigòn thực hiện. Nghĩa trang lúc này được bao bọc bởi bốn bức tường vôi cao 2.5 thước với cổng chính ở phía nam đường Legrand de la Liraye (sau là đường Phan Thanh Giản). Cổng chính này nằm đối diện trực tiếp cuối phía bắc của đường Bangkok, và sau năm 1920, khi đường Bangkok được đổi tên thành đường Massiges, nghĩa trang được biết đến với cái tên mới là nghĩa trang đường Massiges.
Nhiều nhân vật nổi tiếng của thời kỳ thuộc địa sau đó đã được chôn cất ở đây, bao gồm cả sĩ quan hải quân Pháp Alain Penfentenyo de Kervéréguin (mất 12 tháng 2 năm 1946), nhà truyền giáo Grace Cadman (qua đời ngày 24 tháng 4 năm 1946) và nhà báo và chính trị gia Henri Chavigny de Lachevrotière (qua đời ngày 12 tháng 1 1951). Tuy nhiên, trong tất cả các phần mộ, ngôi mộ lớn nhất trong thời gian này là ngôi mộ của Nguyễn Văn Thinh (qua đời ngày 10 tháng 11 năm 1946), chủ tịch đầu tiên của thời tự trị Cộng hòa Nam Kỳ (République de Cochinchine Autonome, ngày 1 tháng 6 1946 – ngày 8 tháng 10 năm 1947).
![]() |
Cổng chính nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi vào năm 1968 |
Sang thời Việt Nam Cộng Hòa, vào tháng 3 năm 1955, đường Massiges được đổi tên thành đường Mạc Đĩnh Chi ,từ đó nghĩa trang này được mang tên nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Trong hai thập kỷ tiếp theo, nhiều thế hệ của các chính trị gia , các nhà lãnh đạo dân sự cũng như quân sự và nhiều tầng lớp nhân dân khá giả khác của xã hội miền Nam Việt Nam cùng với một số lượng nhỏ của người nước ngoài làm việc cho bài Time và Newsweek như phóng viên François Sully (qua đời vào tháng Hai 1971) đã được cất chôn cất tại đây.
Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa,ông Ngô Đình Diệm và bào đệ ông Ngô Đình Nhu, Thống tướng quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông Lê Văn Tỵ,chuẩn tướng không quân Lưu Kim Cương có mộ phần tại đây
![]() |
Người ta lén chôn xác Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu |
Sau năm 1975, nghĩa địa này bị san bằng làm một công viên.
Tài liệu tham khảo :
- Kỷ Yếu Lasan Đức Minh- Kỷ niệm 50 năm thành lập.
- Kỷ Yếu 90 năm Lasan Đức Minh- Lịch sử thành lập trường.
- Trường thánh Michel tại Tân Định-(Tiền thân của La san Đức Minh).
- Cựu chủng sinh Tiểu Chủng Viện Saigon- Lịch sử Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn.
- Dòng Lasan Chương 1 : Tóm tắt lịch sử-lasan.org.
- Niên Biểu Tỉnh Dòng Lasan Việt Nam-28/10/2014.
- Documents 17450 – D8 f2- Ecoles et Etablishments fondés de l’année 1890 à l’année 1954 – Tóm lược lịch sử dòng Lasan từ năm đến 1890 đến 1954.
- tqtadmin -Trường Lasan Đức Minh lúc xa xưa-10/07/2017.
- Qin ShiHuang -Sân trường và sân chơi trường Lasan Đức Minh-23/10/2014.
- Tiến Hùng-Nhớ về trường cũ-Lasan Đức Minh-26/10/2014.
- Hồ Tuấn Hiền-Hồi ký Đức Minh- Kỷ Yếu 90 năm Lasan Đức Minh- Lịch sử thành lập trường.
- Lasan Đức Minh-Ngày trọng đại-Lễ kỷ niệm 50 năm.
- Kỷ Yếu Lasan 90 năm Lasan Đức Minh- Lịch sử thành lập trường :Hồi ức về trường Lasan Đức Minh F. Arthur Nguyễn Phúc Đại fsc.
- Tổng Giáo phận Sài Gòn-Nhà thờ Giáo xứ Tân Định- Lược sử Giáo xứ Tân Định-Giáo xứ Tân Định: xưa và nay.
- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia- Philípphê Phan Văn Minh.
- Tài liệu 118 Vị Tử Đạo Việt Nam.
- Thánh Phan Văn Minh-Nhà điển ngữ- Trich bài nói chuyện trong khuôn khổ ngày Văn Hóa và Sinh Nhật thứ XVIII thư viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày 30 tháng 3 năm 2008.
- Thế Quyết-Tân Định Ngày Ấy… Bây Giờ.
- Lương Thái Sỹ- An Dân Một thời cà phê Sài Gòn-thập niên 1960-1970.
- Tom Doling- Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi-22/11/2014.
No comments:
Post a Comment