Thursday, May 30, 2019

CHUYỆN ĂN THỊT THÚ VẬT

PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.


          Con người làm chủ quả địa cầu tức là sở hữu chủ của núi rừng, sông hồ, biển cả, tài nguyên trên mặt đất, dưới lòng đất, dưới sông, hồ, biển cả. Họ ăn tất cả những loại thảo mộc ăn được hoặc có hương vị hấp dẫn và ăn thịt tất cả các loài thú có trên mặt đất. Khi chưa biết tạo ra lửa loài người sống trong cảnh ăn lông ở lổ theo quan điểm của con người bây giờ. Loài người chỉ thuần hóa một số súc vật để ăn thịt (trâu, bò, ngựa, dê, trừu, heo, thỏ, gà, vịt, cá...). Trâu, bò, ngựa giúp ích trong công việc đồng áng hay chuyên chở, kéo xe. Chó giữ nhà; mèo bắt chuột; khỉ rút phong cho ngựa. Các gánh xiệc lớn nuôi voi, sư tử, cọp, beo để biểu diễn. Tùy theo tôn giáo, sinh hoạt kinh tế và vùng khí hậu mà người ta ăn thịt loài súc vật này  mà không ăn thịt loài súc vật khác. Người Trung Hoa, Việt Nam ăn nhiều thịt heo vì dành đất để canh tác nên không có đồng cỏ để phát triển chăn nuôi. Người ta nuôi heo ngay trong nhà. Đó là cách tạo nguồn dinh dưỡng hay tạo thêm lợi tức thích hợp cho những người làm nghề nông và sống định cư. Thức ăn của heo tương đối dễ tìm: cám, chuối, rong, bèo, thức ăn thừa v.v. Người Do Thái và Hồi Giáo không ăn thịt heo. Nguyên thủy dân ở Trung Đông bây giờ là dân du mục sống trong vùng khí hậu khô hạn và nóng bức nên việc chăn nuôi heo khó thực hiện vì heo cần nước. Heo không di chuyển và cũng không ăn cỏ như dê, trừu. Người Ấn Độ không ăn thịt bò cũng như người Việt Nam ít ăn thịt trâu (thủy ngưu) vì cần chúng giúp việc đồng áng. Người Việt Nam ăn thịt bò nhưng ít ăn thịt trâu vì trâu giúp nông dân trong việc cày bừa và kéo xe khỏe hơn bò.
Cá, tôm cua, sò ốc, gà, vịt được toàn thể các dân tộc trên thế giới dùng. Người Việt Nam không ăn cá to. Trái lại người Nhật thích ăn thịt cá voi. Ở vài thành phố miền duyên hải Việt Nam ngư dân thờ cá voi vì tin rằng cá voi giúp cho thuyền đánh cá không bị lật vào những ngày giông bão.
Người Trung Hoa ăn tất cả thịt các loài thú vật nuôi trong nhà hay săn bắt trong rừng. Nhưng loại thịt thường dùng là thịt heo (hủ tiếu, heo quay, heo xa xíu, xíu mại, bánh bao, lòng heo phá lấu...). Người Việt Nam cũng chia sẻ quan niệm ẩm thực tương tự. Loại thịt thường thấy trong thức ăn của người Hồi Giáo và người Âu Châu dọc theo Địa Trung Hải là thịt dê và trừu. Người Âu Châu và Mỹ Châu ăn nhiều thịt bò. Họ cũng ăn thịt heo và thịt gà. Về thịt rừng họ thích ăn thịt nai. Người Hoa Kỳ không thích ăn thịt thỏ như người Pháp ưa ăn thịt thỏ nấu với rượu chát (lapin en civet). Ở nước ta thường các xóm đạo có nuôi thỏ để bán thịt và bán cho bịnh viện Pasteur.
Ở Âu Mỹ chó, mèo được xem là những con vật thương yêu được nuôi trong nhà. Ngựa cũng được xem loại súc vật được người Âu- Mỹ trân quí. Dù vậy ở Âu Châu vẫn có quầy bán thịt ngựa và gần đây có nơi người ta trộn thịt bò với thịt ngựa qua nhãn hiệu thịt bò tức nhãn hiệu thịt bò bên trong là thịt ngựa. Người Âu -Mỹ không ăn thịt chó và thịt mèo.
Cẩu nhục được các thầy thuốc Hoa y cho là bổ dương nên được hưởng ứng ở Trung Hoa, bán đảo Triều Tiên và Việt Nam. Ở Việt Nam còn có câu:
Sống trên đời ăn miếng dồi chó,
Chết xuống Âm phủ biết có hay không?
Mùa nắng ăn chó trắng,
Mùa mưa ăn chó vàng,
Nắng mưa làng chàng khoan, vàng, đốm, vện.
Còn có chuyện ông Diêm Vương nạt con chó kiện người làm thịt nó: “Thôi im miệng lại đi! Nói mãi tao phát thèm!” Không biết có phải do ảnh hưởng của chuyện tiếu lâm này  hay không, những người van vái thoát khỏi tù tội, tai họa hiểm nghèo bằng cách cúng trả lễ bằng một con chó. Văn hóa cẩu nhục và miêu nhục đang lan tràn ở Việt Nam. Việc ăn cẩu nhục đã có từ lâu. Nhưng việc ăn miêu nhục mới có do ảnh hưởng của trào lưu ăn thịt mèo từ Trung Hoa mà ra. Trước kia người Việt Nam vẫn nói:
Ăn thịt mèo nghèo ba năm.
Sự phát triển các quán thịt chó dưới các nhãn hiệu Nai Đồng Quê, Sống Trên Đời, Cờ Tây (nói lái thành cầy tơ) hay quán thỏ nấu rượu chát (lapin en civet) nhưng thực sự là thịt mèo nấu giấm đỏ gây một xáo trộn lớn trong nước khi xảy ra tình trạng trộm chó và mèo càng ngày càng gia tăng đáng sợ. Văn hóa cẩu nhục và miêu nhục có tiếng vang quốc tế khi báo chí Anh đưa ra những bài phóng sự về đường dây buôn chó ở Thái Lan và Lào vào Việt Nam. Gần đây báo chí Anh loan tin một người Việt Nam ở Đức nhớ quê hương bằng cách bắt mèo của người Đức ăn thịt với nước mắm! Ở Trung Hoa lục địa, Đại Hàn những người bảo vệ súc vật đụng độ với những người mua chó, người bắt chó và chủ các tiệm bán thịt chó. Kết quả là có người bảo vệ súc vật bị chém trọng thương hay nhẹ hơn là bị đánh ngã gục bất tỉnh. Ở Việt Nam những người đi bắt chó bị chủ chó dùng luật giang hồ để đáp trả đến vong mạng. Chánh quyền phải làm gì? hay trở thành ông Diêm Vương xử án nghĩa là ông ấy đứng theo phe hạ thịt cầy như đã nghe ông Diêm Vương phán: “Nói mãi tao phát thèm.”
Chỉ có một miếng ăn trong thời no ấm mà xã hội trở nên rối loạn và cộng đồng quốc tế cảm thấy chó, mèo của họ mất an ninh. Sống ở Âu Mỹ có thịt bò, thịt trừu, thịt dê, thịt heo, thịt gà, thịt vịt, thịt thỏ và đủ các loại hải sản không đủ bổ và không đủ ngon bằng cẩu nhục hay miêu nhục sao? Sống trong nước người mà không theo luật pháp của họ và không hòa đồng với cộng đồng dân tộc mà mình sống e rằng sẽ có những hậu quả không tốt đẹp sẽ xảy ra. Hậu quả tệ hại đè nặng trên vai người vi phạm và gây một ấn tượng không mấy đẹp đẽ cho đồng bào ông ta dưới mắt người bản xứ. Người Việt Nam yêu thương chó và mèo nhưng chưa chăm sóc sức khỏe của chó và mèo như người Âu- Mỹ. Ở Âu- Mỹ chó, mèo được chích thuốc ngừa, được huấn luyện và được nằm bịnh viện thú vật khi bị binh. Mùa lạnh chó, mèo được mặc áo ấm để ngừa bịnh phổi. Trong đội quân khuyển, chó có công trạng cũng có cấp bậc như một quân nhân hữu công. Nhiều nơi có nghĩa địa chó, mèo. Trên thế giới người ta chăn nuôi bò, dê, trừu, ngựa, thỏ, gà, vịt, cá... nhưng không nơi nào chăn nuôi chó, mèo qui mô để bán hay ăn thịt cả. Các quán cẩu nhục hay miêu nhục làm sao có đủ nguồn thịt hằng ngày để bán cho thực khách nếu không xảy ra những nạn cẩu tặc hay miêu tặc? Việc duy trì hay chấm dứt hiện trạng hỗn loạn xã hội về nguồn cẩu nhục, miêu nhục, vệ sinh ở các quán Cờ Tây (Cầy Tơ) là trách nhiệm của chánh quyền và người tiêu dùng. Bài toán dễ trở thành bài toán dang dở không bao giờ có đáp số. Thịt heo, thịt bò, thịt gà bán ở các cửa hàng đều được thú y kiểm chứng. Thịt chó và thịt mèo có được kiểm chứng không mặc dù bày bán công khai?
 

Thursday, May 9, 2019

ĐẠI VĂN HÀO VICTOR HUGO (1802 - 1885)


Phạm Văn Tuấn
Victor Hugo là nhà thơ, nhà viết tiểu thuyết, nhà viết kịch danh tiếng nhất của nước Pháp, là nhân vật dẫn đầu phong trào Lãng Mạn (the romantic movement) của nền Văn Chương Pháp. Các tác phẩm của ông gồm 45 cuốn với hai cuốn tiểu thuyết được toàn Thế Giới biết đến, là cuốn “Anh Gù của Nhà Thờ Đức Bà” (The Hunchback of Notre Dame, 1831) và cuốn “Các Kẻ Khốn Cùng” (Les Misérables, 1862), với hai nhân vật trong truyện là anh gù Quasimodo trong cuốn tiểu thuyết trước và Jean Valjean trong cuốn sau.
Khả năng sáng tạo của Victor Hugo rất lớn lao, mỗi ngày ông có thể làm 100 câu thơ hay viết 20 trang tiểu thuyết và qua các tác phẩm của ông, đã phản ánh các phong trào chính trị và văn chương của thời đại, đã bộc lộ rõ niềm tin của ông nơi Khoa Học, nơi nền Dân Chủ và Tự Do. Victor Hugo đã chào đời vào năm 1802 và qua đời năm 1885, và do các tác phẩm đồ sộ, thế kỷ 19 với nền văn chương đặc sắc của nước Pháp, đã được gọi là “Thế Kỷ của Victor Hugo”.

1- Các năm thiếu thời (1802-1830).
Victor Hugo chào đời vào ngày 26 tháng 2 năm 1802 trong tỉnh Besancon, nước Pháp, là con trai thứ ba của ông Joseph Léopold Sigisbert Hugo, vốn là con của một người thợ mộc, nhưng ông Joseph đã phục vụ quân đội Pháp trong thời kỳ Cách Mạng và lên tới cấp bậc thiếu tá, rồi về sau do lòng dũng cảm và công trạng chiến trường, trở thành một vị tướng trong đội quân của Napoléon. Ông Joseph đã trung thành với chế độ mới, từ Hội Nghị Quốc Ước tới Đế Chế Thứ Nhất, đã phục vụ cho Joseph Bonaparte và quân vụ đã khiến cho Tướng Hugo này phải đi làm việc tại nhiều nơi.
Victor Hugo đã đi thăm cha tại nước Ý vào tuổi lên 5 và theo học trường tiểu học tại Madrid, nước Tây Ban Nha, vào tuổi lên 9. Ký ức về tuổi trẻ xa xứ đã được Victor Hugo ghi lại sau này qua các tập thơ và các vở kịch.
Trái ngược với người cha theo Cách Mạng Pháp, bà mẹ của Victor Hugo lại là một phụ nữ có tính độc lập, cương quyết, theo phe Bảo Hoàng và không ưa cuộc đời nay đây mai đó của vợ một quân nhân, vì thế vào năm 1812, bà Joseph Hugo đã định cư tại thành phố Paris và từ nay, ba người con trai của bà theo đuổi một nền giáo dục căn bản. Sự khác biệt vì tư tưởng chính trị, vì tính tình tương phản giữa hai ông bà Hugo đã dẫn đến việc ly dị chính thức vào năm 1818. Victor Hugo sống với mẹ, nên vào thời gian đầu, đã theo khuynh hướng bảo hoàng.
Victor Hugo là con trai nhỏ nhất, đã theo học tại trường trung học Louis-le-Grand (1816-18). Cậu Victor này từ nhỏ đã có thiên khiếu về văn thơ, vào tuổi 15 đã yêu thương cô bạn gái hàng xóm tên là Adèle Foucher và đã dự tính sau này theo ngành văn học để có thể kết hôn với người yêu. Tại trường trung học, Victor Hugo là một học sinh xuất sắc về Toán Học và Văn Chương. Năm 1817, Victor Hugo lãnh được bằng khen danh dự của Hàn Lâm Viện Pháp về một bài thơ dự thi rồi tới năm 1819, đã đoạt giải nhất trong một kỳ thi thơ phú toàn quốc.
Năm 1818, Victor Hugo ghi danh vào Đại Học Luật Khoa Paris nhưng việc theo học này đã không đều và không có chủ đích. Các kỷ niệm về thời sinh viên nghèo này đã được phản ánh qua nhân vật Marius trong cuốn truyện “Các Kẻ Khốn Cùng”.
Luật Khoa không phải là tham vọng của Victor Hugo bởi vì trong các cuốn sổ của ông đã ghi đầy các bài dịch nhiều vở kịch, các bài thơ, đặc biệt là các thi phẩm của Virgil. Do sự khuyến khích của bà mẹ, Victor Hugo đã lập ra tạp chí văn học “Le Conservateur Littéraire” (Người bảo quản văn chương, 1819-21) qua đó, các bài của ông viết về hai nhà thơ Alphonse de Lamartine và André de Chénier, đã được nhiều người chú ý. Trong một cuốn sổ ghi, Victor Hugo đã viết: “Tôi sẽ trở nên một Chateaubriand hoặc chẳng ra gì”. Chateaubriand là nhà văn hàng đầu của nước Pháp vào đầu thế kỷ 19.
Khi bà mẹ qua đời vào năm 1821, Victor Hugo đã từ chối nhận trợ cấp của cha và chịu đựng cuộc sống thiếu thốn. Cũng vào năm này, ông cho xuất bản thi phẩm đầu tiên có tên là “Odes et poesies diverses” (Các bài thơ ngắn và thơ nhiều loại) qua đó các cảm tình bảo hoàng đã khiến cho ông nhận được món tiền trợ cấp 1,000 quan một năm của Vua Louis 18 rồi nhờ số tiền này, Victor Hugo đã kết hôn với người yêu Adèle Foucher và họ đã có với nhau 4 người con.
Năm 1823, Victor Hugo phổ biến cuốn truyện tiểu thuyết đầu tiên tên là Han d’Islande (Đại Hãn của Ái Nhĩ Lan), mô tả sự man rợ của một bộ lạc chặt đầu người bằng búa đá và uống máu kẻ địch. Cuốn truyện này được dịch sang tiếng Anh vào năm 1825 và được nhà báo Charles Nodier cho là có giá trị nên ông này đã mời Victor Hugo tham gia vào nhóm các nhà viết văn thuộc trường phái Lãng Mạn (Romanticism). Nhóm văn hữu này mang danh hiệu là Cénacle và cũng do mối liên lạc này mà Victor Hugo quen biết Saint-Beuve, một nhà phê bình văn chương Pháp độc đáo của thế kỷ 19.
Nhóm văn hữu Cénacle họp mặt thường xuyên tại thư viện Arsenal, họ đã đề cao tự do là nguyên tắc của nghệ thuật và đời sống. Vào thời kỳ này, Victor Hugo đã phổ biến một loại báo văn học có khuynh hướng ôn hòa với tên là Muse Francaise (Thi Thần nước Pháp, 1823-24).
Năm 1824, Victor Hugo cho xuất bản tập thơ ngắn Nouvelles Odes (Các bài thơ ngắn mới) rồi hai năm sau, xuất hiện cuốn tiểu thuyết Bug-Jargal (bản dịch tiếng Anh là The Slave King = nhà Vua nô lệ). Tập thơ “Odes et Ballades” (Thơ ngắn và thơ ba tiết ba-lát) là một ấn bản năm 1826, bao gồm nhiều bài thơ Victor Hugo đã làm ra trước kia và các bài thơ sau này mang tính lãng mạn, sau đó là tập thơ “Les Orientales” (Đông Phương, 1829) gợi lên các phong vị lãng mạn và màu sắc của phương đông. Bằng các tập thơ ngắn này và qua cách dùng các nhịp thơ, các hình ảnh rực rỡ, Victor Hugo dần dần trở nên một nhà thơ lãng mạn.
Thiên tài của Victor Hugo đã thể hiện qua trường phái Lãng Mạn như là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch qua kịch bản “Cromwell” xuất bản năm 1827. Kịch bản này nổi tiếng vì lời tựa dài, soạn công phu, qua đó Victor Hugo đã đề cập tới chủ thuyết của trường phái Lãng Mạn (a doctrine of Romanticism) trong một kỳ thi thơ phú toàn quốc.
Victor Hugo cho rằng các tương phản của đời người, thiện hay ác, đẹp hay xấu, vui hay buồn, phải được tự do thể hiện trong các cách diễn tả và bài tựa của vở kịch “Cromwell” của ông đã phá vỡ các luật lệ cổ điển chi phối cách viết kịch từ các thời kỳ trước. Victor Hugo đã cổ vũ việc chấp nhận Shakespeare là một nhà soạn kịch kiểu mẫu, ông ủng hộ lập trường tự do trong ba nguyên tắc viết kịch về thời gian, nơi chốn và hành động, và chủ trương rằng trong vở kịch phải có cả các sự việc bi-hài, có cả sự tầm thường lẫn sự cao cả và như vậy, trường phái Lãng Mạn đã lấn sang địa hạt sân khấu.
2- Giai đoạn thành công (1830-52).
Vào khoảng năm 1831, Victor Hugo đã ưa chuộng, tôn sùng Napoléon, ông đã cho xuất hiện tập thơ “À la Colonne” (Xếp Hàng) và “Lui” (Người), nhưng việc giới hạn tự do báo chí của Vua Charles X và các cách kiểm duyệt của chính quyền thời đó lại khiến cho Victor Hugo hướng về lý tưởng tự do, sự kiện này đã khiến ông gặp gỡ các nhà văn cấp tiến của tờ báo Le Globe (Địa Cầu). Vở kịch “Marion de Lorme” (1829) của ông đã bị cấm trình diễn trên sân khấu vì hình ảnh của nhà vua đã không được trình bày thuận lợi. Victor Hugo đã phản đối các cấm đoán, các giới hạn bằng vở kịch lịch sử “Trận chiến Hernani”, lần đầu tiên trình diễn vào ngày 25-2-1830. Ông viết vở kịch Hernani này, dùng tới miền đất Tây Ban Nha làm địa bàn với các đặc tính trung cổ, bí ẩn và độc đáo. Vở kịch “Hernani” hầu như đã vi phạm tất cả các quy luật cổ điển của Racine và Corneille.
Ngay từ đầu, vở kịch “Hernani” đã bị những người theo trường phái cổ điển la ó, phản đối, và Théophile Gautier là một nhà văn nổi danh thời đó đã phải ghi nhận rằng cả hai trường phái đã đối nghịch nhau trong các cuộc tranh luận văn chương. Vở kịch “Hernani” đã được trình diễn 45 lần, một thành công đáng kể đối với thời bấy giờ và cuối cùng, các nhà văn cổ điển đã phải chịu thua. Victor Hugo được ca ngợi là người đã giết chết con rồng cổ điển và trường phái Lãng Mạn đã toàn thắng về mọi mặt. Victor Hugo trở thành nhà lãnh đạo của phong trào Văn Chương Lãng Mạn của nước Pháp. Vở kịch “Hernani” về sau được Giuseppe Verdi, nhà soạn nhạc người Ý, dựa theo đó mà sáng tác ra nhạc kịch Ernani vào năm 1844.
Giai đoạn sáng tác phong phú nhất của Victor Hugo là các năm từ 1829 tới 1843. Năm 1831, cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà” (Notre Dame de Paris, dịch sang tiếng Anh là The Hunchback of Notre Dame = Anh Gù của Nhà Thờ Đức Bà) là một tiểu thuyết lịch sử, đề cập tới đời sống dưới thời Vua Louis 11. Cuốn truyện đã lên án xã hội, đã chồng chất các đau khổ lên đầu các nạn nhân như anh gù Quasimodo và người con gái “gypsy” tên là Esmeralda. Cuốn tiểu thuyết này đã làm xúc động lương tâm của quần chúng hơn là cuốn truyện đã được xuất bản khi trước, với tên là “Ngày Cuối Cùng của một Tử Tội” (Le Dernier Jour d’un condamné, 1829) qua đó Victor Hugo đã phản kháng án tử hình.
Cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà” đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau. Qua tác phẩm này, Victor Hugo đã mô tả cuộc sống bi-hài của anh gù kéo chuông cũng như vẻ rực rỡ của ngôi giáo đường và thành phố Paris thời trước. Victor Hugo cũng xác định rằng một tác phẩm văn học phải là một công trình của trí tưởng tượng, của các biến đổi và những điều dị thường. Tác phẩm văn chương “Nhà Thờ Đức Bà” đã xác nhận Victor Hugo là nhà văn hàng đầu của nước Pháp.
Trong thời gian cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà” đang được viết, Vua Louis Philippe đã trở thành vị vua của thể chế quân chủ lập hiến sau cuộc Cách Mạng Tháng 7 (the July Revolution). Nhân dịp này, Victor Hugo đã làm một tập thơ đề cao sự kiện kể trên với tên là “Dicté après Juillet 1830” (Lời thơ sau cuộc Cách Mạng Tháng 7- 1830) và đây là tập thơ đi trước của loại thơ mang tính chất chính trị của ông.
Cũng vào thời đại Quân Chủ tháng 7 này, Victor Hugo còn cho xuất hiện tập thơ “Lá Thu” (Le Feuilles d’automne, 1831) với các cảm hứng cá nhân và thân thương, “Các bài ca Hoàng Hôn” (Les Chants du Crépuscule, 1835) mang tính chính trị, “Các lời nội tâm” (Les Voix intérieures, 1837) chứa đựng các ý tưởng cá nhân và triết học, “Tia sáng và bóng tối” (Les Rayons et les Ombres, 1840) qua đó tác giả dùng tới nhiều chi tiết, màu sắc và hình ảnh.
Victor Hugo không chỉ biểu lộ các cảm tưởng cá nhân, các câu thơ của ông còn là tiếng nói đề cập tới các vấn đề chính trị và triết học, mang nhiều băn khoăn của thời đại. Các bài thơ của Victor Hugo gợi lên nỗi nghèo khó của người công nhân cùng các vấn đề của thế kỷ. Victor Hugo cũng dùng thơ phú để ca ngợi sự rực rỡ của Napoléon và hô hào trở lại các lý tưởng cộng hòa. Ông đã nói ra bằng các lời lẽ hùng hồn, làm xao động tâm hồn của mọi người.
Khả năng sáng tạo của Victor Hugo rất lớn lao và đã thể hiện qua các vở kịch. Có hai động lực thúc đẩy ông viết kịch: ông cần một diễn đàn để trình bày các tư tưởng chính trị và xã hội, và lý do nữa là vì cô Juliette Drouet, một diễn viên trẻ, đẹp, mà ông đã quen từ năm 1833. Juliette thực ra không có tài năng diễn xuất nên không lâu, đã từ bỏ sân khấu và trở thành người tình trung thành và kín miệng, một thư ký và một người bạn du lịch với nhà văn, cho tới năm 1883 khi cô ta qua đời.
Vở kịch đầu tiên của Victor Hugo là một kịch thơ có tên là “Le Roi s’amuse” (Nhà Vua tiêu khiển – 1832) mô tả các tình yêu nông nổi của Vua Francis I vào thời kỳ Phục Hưng Pháp. Cũng giống như cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà”, kịch thơ kể trên đã chỉ trích các bất công chính trị và xã hội tại nước Pháp. Đầu tiên vở kịch “Nhà Vua tiêu khiển” đã bị chính quyền cấm đoán nhưng về sau được phép trình diễn và lại được nhà soạn nhạc Giuseppe Verdi dùng làm lời cho nhạc kịch Rigoletto. Bốn vở kịch thơ kế tiếp của Victor Hugo là “Lucrèce Borgia và Marie Tudor” (1833), “Angelo, bạo chúa của thành Padoue” (Angelo, tyran de Padoue, 1835), “Ruy Blas” (1838) và “Les Burgraves” (1843) (được dịch qua tiếng Anh là The Governors = các thống đốc) và vở kịch sau cùng này đã không thành công.
Tháng 9 năm 1843, người con gái của Victor Hugo tên là Léopoldine mới kết hôn, đã bị chết đuối cùng người chồng trong một tai nạn, sự việc này đã khiến cho Victor Hugo rất đau buồn. Ông đã ngưng sáng tác trong vài năm, một phần cũng vì các xáo trộn chính trị và xã hội của thời cuộc.
Xã hội của nước Pháp vào giai đoạn này gặp nhiều bất ổn chính trị và thay đổi. Các nhà văn lãng mạn thấy rằng nhiệm vụ của họ không phải là chỉ viết ra các tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp, điều hay, mà tài năng của họ còn phải được dùng vào công việc nói lên các điều bất công trong xã hội và công việc phải giúp đỡ các người nghèo, các người bị áp bức. Nhận định này đã chấm dứt thời kỳ văn chương lãng mạn và bắt đầu thời kỳ hiện thực và tự nhiên (realistic-naturalistic period).
Trong khi chính trị và xã hội của nước Pháp thay đổi, thì lập trường chính trị của Victor Hugo cũng biến đổi theo thời gian. Từ khuynh hướng bảo hoàng của người mẹ, Victor Hugo dần dần mở rộng quan điểm chính trị, dàn hòa với người cha vào năm 1822 để rồi trở nên một người cộng hòa ôn hòa. Sau cuộc cách mạng năm 1848, Victor Hugo được bầu làm đại biểu của thành phố Paris vào Hội Nghị Lập Hiến rồi về sau là Hội Nghị Lập Pháp. Ông đã ủng hộ ông hoàng Louis Napoléon lúc đầu, nhưng vào tháng 2 năm 1851 đã xẩy ra một cuộc đảo chính và Louis Napoléon đã hủy bỏ chế độ cộng hòa, thành lập Đế Chế Thứ Hai (the Second Empire) và trở nên Vua Napoléon III. Do thất bại trong cuộc tập hợp các công nhân của thành phố Paris biểu tình chống lại nhà vua mới, Victor Hugo phải cải trang thành một công nhân và trốn qua đất Bỉ.
3- Giai đoạn lưu vong (1851-70).
Ngày 17 tháng 7 năm 1851, Victor Hugo đã trình bày trước Quốc Hội Pháp một bài đả kích ông hoàng Louis Napoléon. Ông đã giận dữ tuyên bố rằng “Chúng ta đã có Napoléon Đại Đế, phải chăng chúng ta cần có Napoléon Bé Nhỏ ” (Napoléon le Petit). Lời nói “Napoléon Bé Nhỏ” đã là một câu hô hào chống lại Vua Napoléon III trong 19 năm. Sau khi nhà vua này đã dẹp tan được mọi chống đối, lệnh truy nã Victor Hugo được ký vào ngày 3 tháng 12 năm 1851 khiến cho ông phải chạy qua nước Bỉ, rồi các hoạt động chính trị của ông đã khiến cho chính quyền Bỉ đã phải yêu cầu ông ra đi. Victor Hugo chạy qua nước Anh, đầu tiên cư ngụ trên đảo Jersey thuộc vùng biển Channel từ năm 1852 tới năm 1855.
Victor Hugo đã dùng các bài viết đầu tiên của thời kỳ lưu vong vào việc châm biếm và kết tội Vua Napoléon Bé Nhỏ, mô tả nhà vua này là kẻ cắp, kẻ hèn nhát và bạo chúa. Khi nước Anh và nước Pháp trở nên đồng minh chống lại nước Nga trong trận chiến tranh Crimea, các chỉ trích của Victor Hugo đã làm cho chính quyền Anh bối rối và ông bị trục xuất khỏi đảo Jersey. Ông dời sang hòn đảo Guernsey, là nơi có thể nhìn thấy bờ biển của nước Pháp.
Thời gian gần 20 năm sống lưu vong này là thời kỳ sáng tác phong phú nhất của Victor Hugo. Ông đã làm các lời thơ châm biếm trong các tập thơ “Napoléon Bé Nhỏ” (Napoléon le petit, 1852), “Trừng Phạt” (Les Chatiments, 1853) và đây là một trong các tập thơ chỉ trích mạnh mẽ nhất của ngôn ngữ Pháp. Trong thời gian sống lưu vong trên đảo Guernsey, Victor Hugo đã dùng văn chương mô tả các sự thật sâu xa nhất mà ông đã trải qua. Tập thơ “Suy Tưởng” (Les Comtemplations, 1856) là tập thơ được chia làm hai phần, là “Ngày Trước” (Autrefois) và “Ngày Nay” (Aujourd’hui) ngăn cách bằng ngày qua đời của cô con gái Leopoldine.
Victor Hugo đã đề cập tới thiên nhiên, tình yêu và sự chết. Bằng tập thơ anh hùng ca “Truyền thuyết của các thế kỷ” (La Légende des Siècles, 1859), Victor Hugo đã nói về các tiến bộ của nhân loại qua các thế kỷ. Ông đã bàn luận tới sự tranh đấu của con người giữa điều tốt và điều xấu, con người giải phóng chính mình ra khỏi mọi tôn giáo để đi tới sự thật toàn diện và ông cũng tiên liệu sự tiến bộ của Khoa Học và của Kiến Thức.
Khi Vua Napoléon III công bố lệnh ân xá cho mọi người lưu vong vì chống đối, Victor Hugo đã viết rằng: “Cam kết với lương tâm của tôi, tôi chia sẻ cuộc sống luu vong với Tự Do. Khi nào Tự Do trở về, tôi sẽ trở về”.
Trong thời gian sống lưu vong, Victor Hugo trở nên biểu tượng của Tự Do đối với nhân dân Pháp. Ông đã viết ra trong thời gian này các thi phẩm anh hùng ca bất hủ đồng thời hoàn thành cuốn tiểu thuyết dài nhất và danh tiếng nhất: “Các Kẻ Khốn Cùng” (Les Misérables, 1862), một cuốn truyện mô tả rõ ràng và kết án sự bất công của xã hội trong thế kỷ 19.
Vào năm 1848 trước khi tham gia vào các hoạt động chính trị, Victor Hugo đã phác thảo cuốn truyện “Các Đau Khổ” (Les Misères) nhưng tới khi phải sống lưu vong vào năm 1960, ông trở lại với bản thảo cũ. Victor Hugo đã viết: “Dante đã tạo ra một địa ngục từ thơ phú, tôi thử tạo ra một thứ địa ngục khác từ thực tế”. Cuốn truyện “Các Kẻ Khốn Cùng” với hơn 1,200 trang, ngay từ đầu đã được mọi người công nhận là tiểu thuyết của thế kỷ và được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Cuốn truyện này đã lên án các loại địa ngục nhân tạo trên mặt đất với ba vấn đề của thời đại, đó là sự hạ giá nhân phẩm do nghèo khó, sự suy tàn của phụ nữ vì đói khổ và sự thu hẹp thời niên thiếu của trẻ em cả về tinh thần lẫn vật chất. Xã hội của con người còn ngột ngạt khi mà sự ngu dốt và nghèo khó còn tồn tại trên mặt đất.
Ngoài tác phẩm lừng danh “Các Kẻ Khốn Cùng”, Victor Hugo còn viết ra tác phẩm khảo luận có tên là “William Shakepeare” (1864) qua đó bộc lộ các tư tưởng của ông và hai tiểu thuyết khác với tên là “Les Travailleurs de la Mer” (Các người lao động trên biển, 1866) viết ra để tặng cho hòn đảo Guernsey và các thủy thủ của nơi này, và “L’homme qui rit” (Người hay cười, 1869), một cuốn tiểu thuyết về người dân nước Anh chống lại chế độ phong kiến của thế kỷ 17. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Victor Hugo là cuốn “Chín Mươi Ba” (Quatrevingt-treize, 1874), tập trung vào năm 1793 đầy chính biến tại nước Pháp, đề cập tới sự công bằng và bác ái chống lại hậu trường của cuộc Cách Mạng Pháp.
4- Trở về nước Pháp.
Trong 19 năm, Victor Hugo đã báo trước sự sụp đổ của chế độ độc tài của Vua Napoléon III và cảnh cáo về những tai họa theo sau. Năm 1870, Vua Napoléon III đầu hàng tại Sédan vì nước Pháp thua trận trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ và từ nay tới lượt “Vua Napoléon Bé Nhỏ” bị đưa đi lưu vong.
Victor Hugo trở về thành phố Paris trong tiếng chào mừng trên đường phố, trước khách sạn mọi người đều hô to câu “Victor Hugo muôn năm”. Nhưng Văn Hào Hugo đã không an hưởng được hòa bình. Thành phố Paris còn bị quân đội Phổ vây hãm và Victor Hugo đã kêu gọi người Đức nên thiết lập lại hòa bình giữa hai nước Pháp và Đức bởi vì Đế Chế Thứ Hai đã sụp đổ. Ông viết: “Hãy xóa biên giới. Dòng sông Rhine nên được dùng cho mọi người. Chúng ta hãy ở trong một liên bang, Liên Bang của châu Âu…. Hãy duy trì hòa bình quốc tế. Bây giờ hãy bắt tay với nhau và hãy giúp đỡ lẫn nhau…”.
Nhưng mặc dù các lời kêu gọi thống thiết của Văn Hào, vẫn còn các hận thù giữa người Pháp và người Đức, vẫn còn sự chia rẽ giữa phái tả và phái hữu tại nước Pháp, một chính quyền ổn định chỉ là một ảo tưởng. Văn Hào Victor Hugo được bầu làm đại biểu của Quốc Hội Pháp vào năm 1871 nhưng sau một tháng, ông đã từ chức. Victor Hugo đã tình nguyện rời khỏi nước Pháp một cách cay đắng và trở về đảo Guernsey vào năm 1872 và từ đây, ông đã trải qua một năm hướng nhìn về Tổ Quốc.
Năm 1873, Victor Hugo trở lại thành phố Paris và được bầu vào Thượng Viện (the Senate). Ông luôn luôn chống lại các hình thức độc tài mới, chẳng hạn như ngăn trở các tham vọng của Thống Chế Mac Mahon.
Vào năm 1768 trước kia, bà vợ Adèle của Văn Hào Hugo qua đời, để lại cho ông nỗi buồn vô hạn, rồi sau đó là hai cái tang của hai người con trai, chết vào năm 1871 và 1873. Năm 1882 tới lượt cô Juliette Drouet qua đời, cô là thư ký và cũng là người tình, người bạn đồng hành trung thành của Văn Hào Hugo. Cùng vào năm 1882, lễ thượng thọ 80 của Văn Hào được nước Pháp tổ chức long trọng với Đại Lộ d’Eylau được đổi thành Đại Lộ Victor Hugo và Văn Hào được ca ngợi như một vị anh hùng quốc gia.
Sức khỏe của Victor Hugo suy yếu dần. Vào mùa hè năm 1883, Văn Hào Victor Hugo đã để lại những điều dặn dò, được coi như lời di chúc:
  • Tôi cho các kẻ nghèo 50,000 quan. 
  • Tôi ước mong được mang tới nghĩa trang trong quan tài của người nghèo khó. 
  • Tôi từ chối các lời cầu nguyện của tất cả nhà thờ. 
  • Tôi tin tưởng nơi Thượng Đế.
Victor Hugo từ trần vào ngày 22 tháng 5 năm 1885. Mặc dù ước vọng của ông là được chôn cất trong hoàn cảnh của kẻ nghèo, chiếc quan tài của ông được đặt tại Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) với 12 nhà thơ lớn đứng kế bên, có nhiều kỵ binh cầm đuốc xếp hàng chung quanh và tang lễ được cử hành rất long trọng như một quốc lễ để tôn kính nhà văn vĩ đại nhất của nước Pháp. Vào ngày tang lễ, dân chúng đứng xếp hàng dài từ Khải Hoàn Môn tới Công Trường Concorde. Văn Hào Victor Hugo được chôn cất trong Điện Panthéon, nơi an nghỉ của các vĩ nhân của nước Pháp.
Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi buồn của nhiều người. Khi được hỏi Ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn Hào André Gide đã trả lời: “Vẫn là Victor Hugo”. Victor Hugo có thể bị chỉ trích về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong truyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho “Chân, Thiện, Mỹ” và ông là Văn Hào được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.
Về Kịch Nghệ, Victor Hugo là người phát ngôn của trường phái Lãng Mạn, ông đã lên án sự cứng rắn về ngôn ngữ và hình thức của trường phái Cổ Điển, chỉ quen dùng đề tài là các vua chúa Hy Lạp hay các anh hùng La Mã. Victor Hugo đề nghị dùng lịch sử cận đại với nhân vật trong các vở kịch có thể là một người tư sản, một tên cướp… nhưng vẫn mang vẻ cao thượng trên kịch trường và như vậy đã chuyển hướng Kịch Nghệ về đường lối Hiện Thực.
Về phương diện tiểu thuyết, Victor Hugo đã đề cập tới các vấn đề luân lý với các nhân vật trong truyện làm các hành động đơn giản nhưng không thể quên được. Cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà” là một tiểu thuyết lịch sử, với thời điểm là các năm 1400 tại thành phố Paris. Cuốn tiểu thuyết “Chín Mươi Ba” nói về các biến cố của cuộc Cách Mạng Pháp, còn cuốn “Các Kẻ Khốn Cùng” được đặt vào trong khung cảnh của nước Pháp cùng thời đại với nhà văn, với nhân vật Jean Valjean phấn đấu để có thể thực hiện một đời sống hữu ích mặc dù các thành kiến của một xã hội tàn ác.
img_0965
Như vậy cuốn truyện đã phản ảnh niềm tin của tác giả vào khả năng tự quyết của cá nhân đối với các thói đời. Cuốn truyện đã mô tả bản chất của xã hội và bản chất của con người. Victor Hugo cho rằng các điều kiện xã hội phải thay đổi để cho các trẻ em được nuôi dưỡng đầy đủ, đàn ông có công việc làm ăn, đàn bà được che chở, nền giáo dục nên dành cho mọi người, cơ hội phải công bằng và giữa con người với nhau phải có tình huynh đệ. Cuốn tiểu thuyết “Các Kẻ Khốn Cùng” đã đặt ra nhiều vấn đề liên quan tới chính trị, xã hội, văn chương, lý tưởng nhân đạo và hướng thiện. Ngoài ra, nhiều tác phẩm của Victor Hugo còn được coi là xuất sắc vì cách canh tân về ngôn ngữ và hình thức văn chương, vì cách vận dụng chủ đề theo trừu tượng.
Đại Văn Hào Victor Hugo xứng đáng được kể là nhà văn đại diện cho Tinh Thần của nước Pháp vào Thế Kỷ 19.

Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org; Britannica Encyclopedia; Sparknotes.com., Cliffsnotes.com.
Nguồn NGUYỆT SAN VIỆT NAM     

Friday, May 3, 2019

TÔI ĐI HỌC

THANH TỊNH
 


Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
– Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
– Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
– Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại).
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
– Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
– Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
          Bài tập viết: Tôi đi học!
Bút tích của Thanh Tịnh