Saturday, December 29, 2018

SẤM TRẠNG TRÌNH - NHÀ TIÊN TRI HÀNG ĐẦU NƯỚC VIỆT

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư


Bà con mình rất ưa tò mò về chuyện tương lai. Thành ra ai cũng thích nghe về ‘Sấm Trạng Trình’. Người ta gọi ngài là nhà đại tiên tri, coi bói hậu lai như thần.

Tên gốc là Nguyễn bỉnh Khiêm. Tên húy là Nguyễn văn Đạt. Tên tự là Hanh Phủ. Tên hiệu là Bạch Vân Am cư sĩ. Các môn sinh tôn ngài là Tuyết Giang phu tử. Từ thế kỷ 16, tiếng tăm ngài đã vang dội khắp chốn. Đã tiên đoán tương lai giỏi, lại có tài thơ văn, kèm theo lối sống đạo hạnh khác thường. Năm 1535 đậu trạng nguyên, ra làm quan, được phong tước ‘Trình tuyền hầu’ rồi ‘Trình quốc công’. Thiên hạ gọi ngài gọn ghẽ với tên TRẠNG TRÌNH.

Dĩ nhiên ngài nổi tiếng về những bài SẤM, cho nên huyền thoại Sấm Trạng Trình đã đi vào lịch sử dân gian dân ta. Bà con mình còn tôn kính ngài, bên cạnh vĩ nhân Nguyễn Trãi, là ‘cây đại thụ văn hóa dân tộc’ (qua nhiều tác phẩm dồi dào phong phú, được lưu truyền rộng rãi khắp nơi). Ngài cũng được yêu mến như một nhân sĩ chủ trương ‘nhân đạo chủ nghĩa’ cho mọi người. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt sâu rộng và dài lâu.

Nhân tài chỗ nào ?



Có nhân sĩ đã nhận xét : “Trạng Trình là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước.

Thật ra, bà con mình hay nhắc tới những biến cố lớn : ví dụ ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.

Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán – Nôm còn giữ được bốn bản. Ví dụ có truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:

“Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn (Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta).

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn .

Chuyện thời sự hôm nay :



Bây giờ người Việt chúng ta thử bàn chuyện thời đại đang ‘nóng’với vụ ‘Biển Đông’ nhé :

Trạng Trình đã ghi rõ "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Chí những phù nguy xin gắng sức/Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình".

Với con mắt chiến lược, nhìn thấy đại cục thiên hạ ngàn năm, Trạng Trình đã khuyên thế hệ sau phải nắm giữ được Biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.

Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc, càng thấy rất rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ lắng đọng trong đó một tư tưởng chiến lược, một dự báo thiên tài: "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Vạn lý Đông minh quy bả ác/ức niên Nam cực điện long bình".

Trải qua không ít thực tế, chúng ta càng thấy những câu thơ sấm truyền của cụ Trạng mang tính thời sự thức thời đối với người Việt. Hai câu thơ mang tính dự báo chiến lược của cụ Trạng càng khiến lay động từ sâu thẳm ý chí của người Việt về cái tâm thức bám biển, giữ biển của mình. Tự ngàn xưa, người Việt đã là những cư dân sông nước, cư dân của văn hóa biển đảo.

Với kho sấm truyền của cụ Trạng còn ứng đúng với những cục diện trên thế giới, tỉ như đại chiến thế giới lần thứ II. Đại chiến này khởi đầu khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, từ năm 1940 đã bắt đầu rục rịch (cuối năm Thìn - Long vĩ) khởi đầu chiến tranh, đến năm 1941 (đầu năm Tỵ - Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô (cũ). Qua cuối năm 1942, giữa năm 1943 (Mã đề dương cước) thì đến năm 1944 - 1945 (Thân Dậu niên lai kiến thái bình) mới qua khỏi nạn chiến tranh.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thể giải mã hết những bí ẩn của điều gọi là "Sấm Trạng Trình". Thực tế, cho đến nay vẫn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để giải đáp. Cuối cùng, những lời sấm của nhà tiên tri số 1 Việt Nam cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề ông đã viết: "Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi", mọi ý nghĩa ‘sâu xa hơn’ vẫn là một câu hỏi lớn.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, December 2, 2018

KHO TÀNG VĂN HỌC QUÊ TA

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Một kho tàng vô giá.



Bà con mình ai cũng biết : tiếng nói và chữ viết của dân tộc ta rất là độc đáo, chẳng giống với dân nào trên thế giới cả. Đã mấy ngàn năm nay, ai ai cũng hãnh diện, bắt đầu với loại văn chương bình dân (đại chúng) rồi tới văn chương ‘bác học’ tân tiến. Ngay cả trong các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, người ta vẫn nhắc tới câu nói chí lý của nhân sĩ Phạm Quỳnh ngày nào :”Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn; mà tiếng Việt còn thì nước ta còn”. Cụ Quỳnh ca tụng truyện Kiều của Nguyện Du như một đệ nhất danh phẩm văn chương của quê hương mình, rồi nhân đó kêu gọi gìn giữ văn học Việt để không…mất nước.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng”


Cảm động quá, phải không bà con ? Chỉ 2 câu lục bát này đủ để nhắc chúng ta yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Dù hoàn cảnh đất nước có thế nào đi nữa.

“Bây giờ mận mới hỏi đào :

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?


Mận hỏi thì đào xin thưa :

Lối thì có lối, nhưng chưa ai vào”


Có dân tộc nào mà tạo cách tỏ tình ý nhị sâu sắc của đôi trai gái như ở quê hương mình không ? Thật khó tìm ra lắm !

“Da trắng vỗ bì bạch,

Trời xanh màu thiên thanh”


Nữ sĩ Đoàn thị Điểm ra câu đố, rồi Trạng Quỳnh đáp ngay lại, khiến thiên hạ sững sờ. Chỉ có dân Việt mới hiểu, chứ chả có người nước ngoại quốc nào thấm được cái hay của câu đối Việt Nam, chứ đừng nói tới chuyện phiên dịch ra ngoại ngữ !

Một bề dày lịch sử.



Hình ảnh thày đồ và học trò ngày xưa vẫn làm ai nấy thích thú không ít. Bắt đầu với thời dân ta chịu người Tàu đô hộ một ngàn năm, họ ép mình học chữ Hán, và rồi chữ này mang tới bao khởi đầu cho văn học quê nhà. Từ tích truyện cho tới các hình thức thơ văn, cái gì cũng mượn Tàu. Ta chỉ biết 2 lối thơ là ngũ ngôn và thất ngôn. Qua thời nhà Đường mới phát triển lối thơ tứ tuyệt và bát cú. Về sau, các nhân tài của ta dựa văn học Tàu chế thêm các loại, như thủ vĩ ngâm, liên hoàn, thuận nghịch độc, yết hậu, lục ngôn, tiệt hạ, vĩ tám thanh, song điệp, họa vận và liên ngâm…

Quan trọng nhất là về sau, người Việt chế thêm những loại văn thơ vô cùng hay ho quý giá, như thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói, hát bội và ca Huế (riêng tác phẩm ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là điển hình tuyệt hảo của thể thơ song thất lục bát).

Nét độc đáo của văn học ta còn thể hiện qua các câu đối, các bài phú, bài văn tế (được gọi chung là loại văn đối hay biền văn).

Dĩ nhiên kho tàng văn chương được thể hiện mạnh mẽ qua thể văn xuôi, kể cả thời gian chữ Nôm khởi đầu với danh nhân Hàn Thuyền đời Trần, để rồi xuất hiện những tác phẩm hay ho như ‘Trinh thử’, ‘Cung Oán ngâm khúc’ và nhất là ‘Kim vân Kiều’ của Nguyễn Du. Và ta cũng cần ghi nhớ công ơn bao tác giả vô danh ( tỉ như kẻ viết truyện ‘Bích Câu kỳ ngộ’ hay’Nhị độ mai…) từng góp phần không phải nhỏ.

Nhưng cái đà đẩy mạnh việc sáng tác vẫn là cơ hội ‘ngàn năm một thuở’ khi chúng ta được hưởng món quà vô cùng đặc biệt của các nhà truyền giáo Âu châu, nhất là cha Đắc Lộ, đó là chữ Quốc Ngữ.

Vào thời cận đại, dĩ nhiên với chữ Quốc ngữ, dễ gì ai quên được những tên tuổi lẫy lừng tiếp tay đẩy mạnh nền văn học quê ta : Nào là Nguyễn văn Vĩnh, Petrus Ký, Phạm Quỳnh, Phan kế Bính. Đáng kể nữa là nhóm ‘Tự lực văn đoàn’ lừng danh với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo…Còn về thơ thì những tên tuổi lớn như Thế Lữ (Hổ nhớ rừng), Tản Đà (Khối tình con), Cao bá Quát (Uống rượu tiêu sầu), Nguyễn Khuyến (Ông tiến sĩ giấy), Tú Xương (Tự thán), Hàn mạc Tử (Đà Lạt trăng mờ)…

Vào thời chia đôi đất nước năm 1954, tại miền Nam, bà con thấy bao nhà văn nổi tiếng góp phần to lớn cho văn học : Nhã Ca, Duyên Anh, Hoàng hải Thủy, Mai Thảo, Chu Tử, Nguyễn thị Hoàng, Võ Phiến, Lệ Hằng…

Nói gì thì nói, qua bao thế hệ, riêng nền ‘Văn Chương bình dân’ đã, đang và sẽ là những cột trụ xây nền văn học quê ta. Từ những câu tục ngữ, ngạn ngữ, phương ngôn, cho tới kho tàng ca dao bát ngát giá trị :

“Thương nhau tam tứ núi cũng trèo,

Thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua”


Kế tới là biết bao nhiêu truyện cổ tích đầy ý nghĩa lịch sử giáo dục và giải trí. Nào ‘Sơn Tinh Thủy Tinh’, nào ’Trương Chi Mỵ Nương’, nào ‘sự tích trầu cau’, nào ‘Chử dồng tử’…nhất nhất gợi lại cho hậu thế những tâm tình thật tha thiết với đất nước.

Nền văn học bình dân luôn có tính cách tự nhiên, sâu sắc, giản dị, uyển chuyển và thanh thoát. Nó dựng nên một giá trị trường tồn cao đẹp, tạo sự trưởng thành cho tiếng mẹ đẻ, khó ai quên được trong đời. Khi nói về văn chương ‘bác học’, người ta phải ghi ơn văn học bình dân đã tạo nền móng từ trước. Sự ‘vay mượn’ này đã vô hình chung dựng xây một vườn hoa văn chương quê nhà thật xinh đẹp thơm tho đầy hương sắc.

Gìn vàng giữ ngọc



(Văn miếu Quốc tử giám : đại học tiên khởi Việt Nam)

Văn học là một góc quan trọng của văn hóa nơi dân tộc Việt Nam. Có ai muốn gìn giữ truyền thống văn hóa quê hương mà quên lãng nền văn học được không ? Bỏ qua những thứ tiêu cực trong nước hiện nay, chúng ta đang vui vì tại hải ngoại có những trung tâm dạy Việt ngữ, kèm theo những thư viện ‘bỏ túi’ lưu trữ sách tiếng nước mình, đủ loại cũ mới. Dĩ nhiên trên mạng lưới toàn cầu cũng thấy đó đây những cố gắng giới thiệu các loại sách vở văn thơ cũ mới của văn chương nước nhà. Bà con cứ thử trang nhà http://vietmessenger.com/books/?author=list sẽ thấy vui lắm. Còn đối với các vị cao niên luôn luôn say mê sách cổ Việt Nam ư ? Chúng ta nên bảo nhau cứ tự nhiên mở http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoChuaSachCu.htm . Sướng lắm. Còn nếu khoái đọc tiểu thuyết cũ ? hãy tìm tới trang nhà http://vietmessenger.com/books/ . Kho sách khổng lồ đáng giới thiệu nhất cho cộng đồng thì chúng ta phải kể tới trang http://ndclnh-mytho-usa.org/Kho_Audiobook.htm .

Tại một số nhà sách lớn hải ngoại, bà con cũng rất sung sướng được thấy những tác phẩm mới ra mắt độc giả, ví dụ tập ‘Tác giả Việt Nam’ xuất bản tại Montreal, Canada, giới thiệu hàng trăm người cầm bút ngày qua. Còn nói về những nhà văn hiện nay muốn nối tiếp con đường của các bậc tiền bối, bà con cũng dễ dàng đọc tên họ, như Tưởng năng Tiến với ‘Đường phía bắc’, Huy Yên với ‘Chùm dâu ngọt ngào’, Trạch An và Trần hữu Hội với ‘Bóng xưa’, Mạc phương Đình với ‘Nợ nhau’, Cao thoại Châu với ’24 giờ bất trắc’, Phan thanh Cương với ‘Về trường xưa’…Và còn nhiều nhiều vị khác từ khắp nơi tại hải ngoại, tiếp tục gìn giữ và phát triển nền văn học nước nhà.

Muốn góp phần để ‘gìn vàng giữ ngọc’ ư ? Quý phụ huynh ráng chỉ dạy con em biết mến thương quê hương và dân tộc Việt Nam, nhất là chịu khó học ‘tiếng nước ta’ cho thật thông thạo. Người Tàu, người Do Thái đó, họ bảo nhau chớ đi vào con đường mất gốc. Dù sống ở phương trời nào, giòng máu Lạc Hồng vẫn lưu chuyển trong tim chúng ta.

Mong thay !

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư