Sunday, July 22, 2018

NHỚ BẠCH ĐẰNG GIANG OAI HÙNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
“Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, Giống Lạc Hồng, giống anh hùng, Nam Bắc Trung…”

Ngô Quyền chấm dứt thời kỳ bắc thuộc:



Bấy giờ là năm 938, toàn dân Việt đang rên xiết sau 1117 năm bị Tầu đô hộ, đã cùng Ngô Quyền vùng lên chống ngoại xâm tàn bạo. Ngô tướng quân đã khôn khéo dụ quân bắc phương (nam Hán) cùng ‘tỉ thí’ hải quân tại sông Bạch Đằng. Thế là địch quân đại bại, ta giết chết tướng Hoàng Tháo, chấm dứt những tháng năm tủi hờn, và dựng lại nền độc lập cho dân Việt. ( Ngô Quyền sai quân đóng cọc gỗ ở lòng sông, rồi đem quân khiêu chiến nhử quân giặc vào sâu trận địa đã bố trí lúc thủy triều cao, rồi tung quân đánh úp xua đuổi và phá tan mọi chiến thuyền giặc, khiến chúng không có lối chạy lúc thủy triều xuống thấp ). Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui. Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng Bạch Đằng năm 938 - xứng đáng với danh hiệu là ‘vị tổ trung hưng’ của dân tộc, như lần đầu tiên đã được nêu lên trong sách ‘Việt Nam quốc sử khảo’. Lần đầu tiên đưa thủy triều vào thành một nhân tố, một lực lượng thủy chiến của trận đánh. Đây là sự sáng tạo đầu tiên mà lịch sử vàng son của dân
tộc đã ghi công lao cho Ngô Quyền. Vang vọng đến ngàn thu, không chỉ một thời mà mãi mãi chiến công và nhân thân của lịch sử đánh trận Bạch Đằng lần thứ nhất của tướng Ngô Quyền, về những sáng tạo thần kì đầu tiên, về hậu quả mở màn cho những chiến thắng lớn của hậu duệ. Tất cả đều từ trận đánh và trận thắng đầu tiên trên sông, từ đây trở thành dòng sông lịch sử. Từ đây trở thành dòng sông mà tất cả các con sông của nước Việt đều nhóm lại, hàng trăm và hàng ngàn năm sau, vẫn còn sống mãi bao thế hệ công dân nước Việt ở khắp mọi nơi.

Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân ‘mới tập họp’ của đất Việt ta. mà phá được ngàn vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy". Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, thật là một kỷ nguyên rực rỡ Lê. Một nhà sử học khác đã đánh giá thế này: "Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào cái ‘uy danh lẫm liệt’ ấy để lại. Trận Bạch Đằng chính là võ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu !".

Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.

Bạch Đằng giang ở đâu ? Thưa ở gần Hải Phòng. Chỉ là một giòng sông nhỏ (dài 32 km), nhưng thủy triều lên xuống rất khác biệt trong ngày. Tên chữ Nho là 白藤江; tên Nôm là sông Rừng), hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình. Chỗ được du khách viếng thăm nhiều nhất là 3 ‘Bãi Cọc’, với di tích cũ vẫn còn, với hàng trăm cọc gỗ lim, gỗ sến và gỗ táu dài chừng 3 mét được cắm xuống lòng sông.

Lê Đại Hành phá quân Tống:



Thời điểm là vào năm 981. Vua nhà Tống khi đó là Tống Thái Tông xua quân xuống xâm chiếm nước ta. Đạo quân thủy do tướng địch Hầu Nhân Bảo thống lĩnh vào đến Lục Đầu Giang thì bị dụ đi vào sông Bạch Đằng. Lê Hoàn ( lên ngôi lấy hiệu là Lê đại Hành) theo vết cũ của Ngô Quyền để đập tan thủy quân bắc phương. Lần này Lê Hoàn thêm nhiếu sáng kiến: trận đánh trên sông Bạch Đằng lần này là thiên biến, vạn hóa. Từ mưu lược và cách đánh giặc của nước Việt nghìn xưa, một lần nữa được Lê Hoàn làm sôi động trên chiến trường Bạch Đằng giang thiêng liêng.

Trước tiên là những trận đánh cầm cự kéo dài để kìm giam chân giặc, vừa làm nản lòng chúng. Những chiếc cọc Bạch Đằng được dựng lại nhưng không phải để phá giặc mà là ngăn giặc. Như lời chép của sách Đại Nam nhất thống chí rằng “Lê Hoàn sai sĩ tốt đóng cọc ngăn sông”. Chỉ ngăn sông mà kết cục lại là phá tan giặc! Chiến thuyền Tống bị mai phục giữa giàn cọc ngăn sông và bị tấn công tứ bề. Hầu Nhân Bảo mất mạng trong đám loạn quân, Lưu Trừng dẫn toàn quân tháo lui ra biển. Nghe tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông Bạch Đằng, cánh quân của các phó tướng là Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ vội rút chạy, liền bị quân ta truy kích và diệt quá nửa, còn tướng Triệu Phục Huân bị bắt sống giữa trận. Sau đó, nhà Tống xuống nước xin hòa, và năm 986 đành công nhận Lê Hoàn là vua nước Nam.

Sau đó, Lê Hoàn cai trị ‘Đại Cồ Việt’. Vị chủ tướng của ‘trận Bạch Đằng lần thứ hai’ cũng hệt như chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ nhất, giương cao ngọn cờ chiến thắng, ca khúc khải hoàng trở về kinh đô Cổ Loa-Hoa Lư. Cởi tấm chiến bào, võ tướng khoát lại tấm hoàng bào, nhà vua ngồi vững trên ngai vàng quân chủ. Hoàng đế ‘Thiên Phúc’ Lê Hoàn ngời sáng tài năng thao lược với những chiến công trên sông Bạch Đằng lần thứ hai. Vì thế mà sống mãi trong bảng vàng bia đá, đền đài, lễ hội, sống mãi trong tâm trí nhân dân của bao thế hệ khắp nơi, mãi mãi được tôn vinh và kính thờ. Ngài cai trị nổi bật với việc phát triển nông nghiệp và còn có công đánh bại Chiêm Thành thường tới quấy nhiễu nước ta, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: "Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự”..

Hưng Đạo Vương đánh tan quân Nguyên:



Vào giữa thế kỷ 13, quân ta phải chống giặc Nguyên (Mông Cổ) cả dưới nước lẫn trên bộ, 3 lần giao chiến là 3 lần đại thắng. Vào lần đầu, năm 1258, thì nhờ có thái sư Trần thủ Độ, mà quân dân đồng lòng chống giặc: nhà vua ra khẩu hiệu cho cả nước chuẩn bị vũ khí, chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tống giam sứ giả phương bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc. Khi được vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến về kháng chiến chống giặc, lúc này quân Mông Nguyên đang mạnh như vũ bão, (đã chiếm được kinh thành Thăng Long), Thái sư Trần Thủ Độ hiên ngang trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo". Câu nói ngắn gọn, dứt khoát ở tình thế nước sôi lửa bỏng giúp củng cố tinh thần chiến đấu anh dũng của nhà vua, quân và dân Đại Việt, góp phần vào chiến thắng vang dội, khiến giặc phải rút về nước. ( sau khi dùng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến ). Nhưng chỉ huy quân đội thì luôn nhờ tay Hưng Đạo vương (Trần quốc Tuấn).

Vào năm 1285, quân Nguyên lại giở trò xâm lăng, với bộ binh từ phía bắc và thủy binh từ phía nam. Dĩ nhiên Thăng Long cũng bị chiếm rất sớm. Vua tôi Việt Nam cũng phải di tản, tiêu thổ kháng chiến và kiên trì đợi cơ hội phản công, dựa theo kinh nghiệm lần trước. Cứ tuần tự nhi tiến, quân Việt đã lại đuổi được giặc phải rút về phương bắc.

Năm 1288, giặc Nguyên lại trả thù, mang nhiều binh hùng tướng mạnh xuống miền nam. Với nhiều kinh nghiệm cũ, quân ta tìm cách cướp lương thực giặc khiến chúng rất lúng túng. Riêng với chiến trận Bạch Đằng Giang, theo kinh nghiệm đại thắng cũ khởi sự từ Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương còn nâng cao tinh thần quân sĩ bằng việc chỉ gươm xuống lòng sông, thề rằng nếu không chiến thắng thì không trở về. Thế là giặc phải tan tành. (Người ta ghi nhận dịp này có võ tướng Yết Kiêu trổ tài lặn xuống sông đục đáy rất nhiều thuyền giặc.)

Đó là trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Việt Nam (khi Nguyên-Mông tấn công nước ta lần thứ ba, dưới quyền thống soái của ‘Trấn Nam Vương’ Thoát Hoan, con trai Thế Tổ Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên). ‘Trận Bạch Đằng lần thứ ba’ đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang oai hùng ngày nào, giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền và Lê Hoàn từng lập đại võ công. Cũng có nghĩa là giặc đã biết đến giòng sông ấy, đề phòng tối đa với sông ‘thiêng liêng’ ấy. Vì thế không còn con đường nào khác mà ta đành phải lại tìm chiến thắng qua giòng sông ‘định mệnh’ này khi tình thế đòi hỏi. Bây giờ là đầu tháng ba âm lịch năm 1288, toàn bộ cánh quân địch gồm 500 chiến thuyền, sau nhiều tháng trời cùng bộ binh tung hoành ngang dọc trên non sông đất nước ta (nhưng bị đánh úp tả tơi), lúc được tướng Ô Mã Nhi chỉ huy rút lui ra biển qua đường sông Bạch Đằng này, chính là thời điểm và đối tượng để quyết đánh một trận ‘nhớ đời’ của tướng Trần Hưng Đạo.

Lần này, toàn bộ chiến thuyền của giặc cũng lại tan tác trên cọc nhọn yểm dưới lòng sông. Sử viết rõ: 400 thuyền giặc bị tịch thu, các tướng giặc và tám vạn quân bị chết hay bị thương, làm nước sông đỏ ngầu. Viện binh của Thoát Hoan thất vọng nên cố rút lui (chui vào ống đồng) thì bị phục kích trên đất liền nên tổn thất nặng. Từ đó, Thoát Hoan bị phạt không được phép về kinh diện kiến vua cha! Cũng từ đó, nhà Nguyên Mông hết nhòm ngó nước Việt, và bỏ luôn cái mộng chinh phục Đông Nam Á. ( Thế giới đều hiểu chỉ có quân dân Việt Nam là chiến thắng nổi đạo quân hùng mạnh gốc Mông Cổ của nhà Nguyên.

Ngoài tài thao lược dẹp giặc trên chiến trường, Trần Hưng Đạo còn là nhà lý thuyết chiến lược quân sự. Ông đã soạn nhiều tác phẩm để lại cho đời sau học theo (Binh thư yếu lược), trong số đó gồm có: - Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn, thường gọi là Hịch Tướng Sĩ;- Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược;- Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.

Với công lao rất lớn của vị chủ tướng ‘trân Bạch Đằng lần thứ ba’, cũng như cả sự nghiệp kháng chiến giữ nước thời Trần, đã vô cùng xứng đáng (ngay sau đại võ công sông Bạch Đằng) để được triều đình phong lên ‘Đại Vương’. Nhưng với lòng dân mọi thời đại, Trần Quốc Tuấn không chỉ là Hưng Đạo đại Vương, mà còn được dự vào hàng tiên thánh và trở thành ‘đức thánh Trần’. Cùng với Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo chính là hợp thành bộ ba chủ tướng của ba đại võ công lịch sử trên chỉ một dòng sông linh thiêng có tên ‘Bạch Đằng giang’.

Riêng với Hưng Đạo Vương, tài năng kiệt xuất của ngài chính là việc nhận thức rõ dân chúng mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo ‘sức dân’ ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc và tư tưởng nòng cốt của ngài luôn là: “sức dân mới thực sự được coi như ‘rễ sâu và gốc bền’ làm nên thượng sách giữ nước”.

Xin vong linh của các ngài Ngô Quyền, Lê Hoàn và nhất là Trần hưng Đạo hộ phù cho giang sơn đất Việt.

Cũng xin 2 vị anh hùng nối gót các ngài là Lê Lợi và Nguyễn Huệ soi sáng cho đàn con lũ cháu.

Đặc biệt dẫn dắt các người lãnh đạo tại quê hương chúng ta biết đi theo vết bước của tổ tiên mà giữ nước.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, July 15, 2018

BƯỚC ĐI MỚI TÔN VINH CHỮ QUỐC NGỮ


Hoàng Hưng

Nhà báo Lưu Trọng Văn và tôi, Hoàng Hưng, vừa làm xong một việc có ý nghĩa ở Lisbon, thủ đô Bồ Đào Nha, coi như mở đầu cuộc tôn vinh Chữ Quốc Ngữ (CQN) mà một nhóm người yêu tiếng Việt khởi xướng từ tháng 3 năm nay (2018).

Ông Nguyễn Đăng Hưng, nguyên GS Đại học Liege Bỉ, nhiều năm về Việt Nam giúp đào tạo cao học, là người có sáng kiến tôn vinh Cha Alexandre de Rhodes (nguyên cớ trực tiếp là do GS bất bình với “đề án chữ Việt mới” của một vị đã từng gây ồn ào truyền thông hồi đầu năm). Sáng kiến này được ông đưa lên Facebook cá nhân và đưa ra trong buổi họp mặt các nhà văn thân hữu của mạng Văn Việt cuối tháng 3/2018.

Động thái đầu tiên của GS Nguyễn Đăng Hưng là tìm đến ngôi mộ người có công lớn trong công cuộc tạo ra Chữ Quốc Ngữ là Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes người Pháp, ở Isfahan, Iran. Ông đã kiên trì vận động để được chính quyền sở tại cho phép, và thuê làm bia “Tri ân Cha Alexandre de Rhodes, người có công lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ” bằng 4 thứ tiếng (Việt, Pháp, Anh, Iran). Bia sẽ được Giáo sư cùng một số chiến hữu từ Việt Nam và nước ngoài sang Isfahan dựng vào dịp 358 năm ngày mất của cụ Rhodes (5/11/1660).

GS Nguyễn Đăng Hưng dâng hoa tại mộ Cha A. de Rhodes ở Isfahan, Iran

Cùng lúc, Giáo sư kết nối với các nhà nghiên cứu và trí thức ở Huế, Quảng Nam… kiểm lại những chứng tích của buổi khai sinh Chữ Quốc Ngữ ở vùng này, quan trọng nhất là 3 ngôi mộ của các Giáo sĩ Dòng Tên ở Thanh Chiêm, một trong số đó rất có thể là mộ của Giáo sĩ Francisco de Pina, đã được giới nghiên cứu khẳng định là người mở đầu công cuộc hình thành CQN từ đầu thế kỷ 17.

Một dự án lập Khu Tưởng niệm F. de Pina đã nhanh chóng ra đời với sự hưởng ứng của một số cựu lãnh đạo địa phương và trung ương, sự đóng góp tài vật (đất đai, tiền bạc) của doanh nhân và người dân. Nhóm khởi xướng “Tôn vinh CQN” gồm các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nhà giáo… đã hình thành như thế.

Câu chuyện trở nên càng hấp dẫn, khi bà Thuỷ Tiên Nguyễn, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam- Bồ Đào Nha cho biết, sắp có cuộc Hội thảo về quan hệ Bồ Đào Nha – Việt Nam tại Hội Địa lý Lisbon (Sociedade Geografia de Lisboa) vào đầu tháng 7.

Lập tức 2 thành viên “Nhóm Tôn vinh CQN” chúng tôi đăng ký sang Lisbon dự Hội thảo

Nhà thơ Hoàng Hưng, TS Đào Hằng và nhà báo Lưu Trọng Văn tại Thư viện Ajuda, nơi lưu giữ văn bản nghiên cứu CQN đầu tiên của F. de Pina

Chiều 5/7, tại trụ sở Hội Địa lý Lisbon, đã diễn ra cuộc “Hội thảo Quốc tế về Quan hệ Bồ-Việt xưa và nay” do Hội Địa lý Lisbon và Hội Hữu nghị Việt-Bồ đồng tổ chức.

Ông Chủ tịch Hội Địa lý Lisbon khai mạc Hội thảo Quan hệ Bồ-Việt xưa và nay

Bốn báo cáo về vai trò của các giáo sĩ Bồ và việc hình thành CQN của GS Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Lưu Trọng Văn, nhà giáo Lê Nam Trung Hiếu, nhà thơ Hoàng Hưng, nhà giáo Thuỷ Tiên Nguyễn đã gây hứng khởi lớn cho cử toạ là các nhân sĩ trí thức Bồ mong muốn quốc gia này nối lại mối quan hệ vốn có từ lâu đời với xứ sở mà cha ông họ từng có giao tình, cũng như một số doanh nhân đang muốn tìm hiểu một địa chỉ làm ăn mới đầy triển vọng.

Hôm trước hội thảo, các thành viên của nhóm Tôn vinh CQN từ Việt Nam xa xôi cũng có cơ duyên được thăm thánh tích của Đức Chân Phước Andre Phú Yên, một học trò thân tín của A. de Rhodes, thờ tại Giáo đường cổ kính St Roque của Dòng Tên Bồ Đào Nha và thăm Thư viện Biblioteca da Ajuda, đọc tận mắt bản chép lại công trình đầu tiên về CQN của Cụ Pina (đầu TK 17) trong cuốn sách cổ từ TK 18: “Manuductio ad Linguam Tunckinensem” (Sổ tay về Tiếng Tonkin).

Thông tin về Hội thảo lan truyền rất nhanh về Việt Nam, lập tức chúng tôi nhận được những hứa hẹn góp sức cho những việc làm sắp tới của nhóm Tôn Vinh CQN.

Cũng từ Việt Nam, đã có thông tin về kế hoạch khai mạc một Viện (Institute) thuộc trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, bao gồm nhiều nhân sĩ trí thức Việt Nam cũng như quốc tế. Viện có mục tiêu tôn vinh những người có công xây dựng, phát triển CQN, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và con cháu người Việt trên khắp thế giới… Việc làm trước mắt của tổ chức này sẽ là xây dựng khu Tưởng niệm Cụ Pina ở Quảng Nam và hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày Vua Khải Định ra Đạo dụ bãi bỏ Khoa cử, coi như thừa nhận CQN là chữ viết chính thức của quốc gia (1919).

Đây có thể coi là bước đi mới của công cuộc tôn vinh CQN đã diễn ra từ sau Đổi Mới.

Lần đầu tiên là vụ phục hồi danh dự và công lao Alexandre de Rhodes vào năm 1993. Báo Lao Động khởi ra việc này với các bài viết của Minh Hiền, Hoàng Hưng, bác bỏ sự buộc tội bất công kéo dài mấy mươi năm đối với Giáo sĩ (những phát biểu của ông đã bị diễn giải theo định kiến chính trị tiêu cực).

Khi đó theo yêu cầu của báo Lao Động, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử, đã có bài viết quan trọng xác nhận công lao của Giáo sĩ. Ban Bí thư Đảng Cộng sản còn đề nghị báo Lao Động sưu tầm và cung cấp cho Ban tất cả tư liệu đã có về A. de Rhodes (trong việc này, chúng tôi đã được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các đồng nghiệp ở báo Công Giáo & Dân tộc). Từ đó đưa tới Hội thảo Khoa học Lịch sử về A. de Rhodes và sau đó, tên đường, bia tưởng niệm Giáo sĩ đã được phục dựng.

Bước thứ hai là việc Quỹ Phan Châu Trinh đưa những người đặt nền móng cho tiếng Việt hiện đại với CQN như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh vào danh mục các danh nhân Văn hoá được Quỹ tôn vinh hằng năm.

Nhiều người hy vọng rằng, ở bước đi mới hôm nay, đông đảo người dân Việt Nam sẽ có cơ hội biết đến và tri ân công lao của những người đặt những viên gạch đầu tiên của Lâu đài CQN – các Giáo sĩ Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral, António Barbosa, và đặc biệt Francisco de Pina.

Người ta cũng chờ đợi những động thái tích cực rõ ràng từ các cơ quan hữu trách chính thức, dẫn đến việc tôn vinh Cụ Pina một cách xứng đáng, đúng với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.

Hoàng Hưng

Nguồn: www.Boxitvn.net

Monday, July 2, 2018

HÈ VỀ

Mùa vui đùa thư giãn :



Nào chúng ta cùng tưởng tượng đang còn sống tại quê nhà, tâm tư rộn niềm vui sướng mỗi lần nghe Hè sang :

Trời hồng hồng sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song …

Hè về non nước yêu yêu
Hè về nắng thông reo…


Trên đây là 2 câu mở đầu và kết thúc nhạc phẩm ‘Hè về’ của cố nhạc sĩ tiền chiến Hùng Lân. Cùng với bài ca ‘Khỏe vì nước’, người nhạc sĩ tài hoa (đi tiên phong nền tân nhạc Việt Nam) này đã làm cả nước cùng vang lời hát, đặc biệt trong bối cảnh nước nhà đang mong đợi sự dấn thân và niềm hăng say cũng như nét tươi trẻ, để cùng xây dựng tương lai.

Mùa hè về trong tiếng ve râm ran, cái nắng vàng ươm, trong những tán lá xanh và trong những cơn mưa đầu mùa mát lành. Mùa hè gợi mở những không gian bao la để ta hòa mình vào thanh âm và sắc màu tuyệt vời của cuộc sống :

Bạn ơi biết không
Hè về rồi đó
Chiều nay bạn gió
Mang nồm về đây
Ôi mới đẹp thay!
Phượng hồng mở mắt


(khuyết danh)

Trước hết chúng ta nói về chuyện nghỉ hè của đám học trò. Nghỉ là gấp sách vở lại. Không phải tới trường mỗi ngày nữa. Lũ học trò luôn khoái mùa Hè nhất trong năm. Đối với chúng, mùa hè bắt đầu khi tiếng trống trường cuối cùng vang lên. Mùa hè đầy nắng, đầy gió, chứa đựng nhiều dự định và hứa hẹn những chuyến đi xa để được khám phá bao điều hay ho. Nhưng mùa hè trong bước chân chầm chậm của cô bé nào đó khi bước ra khỏi cổng trường lại mang theo một nỗi ám ảnh ưu tư.

Ta thử đọc một đoạn văn ‘trẻ’ nói lên tâm tư thích mùa Hè nhé :

“Mỗi khi hè về là em lại háo hức vô cùng bởi đó là mùa mà em thích nhất. Những tia nắng chói chang cùng bầu trời cao vời vợi là đặc trưng của mùa hạ. Cây phượng nở hoa đỏ rực cả một góc trời như những cây đuốc khổng lồ chiếu sáng khắp nơi. Tiếng tu hú kêu vang nơi đồng quê báo hiệu một mùa quả chín. Hè về mang theo bản hòa ca của những nhạc sĩ ve sầu, luôn là thanh âm sôi động và náo nhiệt nhất. Từng cánh đồng lúa trải dài một màu vàng bát ngát chờ người nông dân đến gặt hái. Mùa hè có những cơn mưa rào trắng xóa cả đất trời chợt đến rồi lại chợt đi, những cơn gió nam mát rượi đưa em vào giấc ngủ mỗi trưa nắng gắt. Hồ sen nở rộ, những bông hoa khoe ra đài cao của mình dưới ánh sáng gọi ong bướm đến. Cây cối trong vườn đón nhận tinh hoa của đất trời để cho những trái chín mọng. Mùa hè rất đẹp, là mùa luôn mang đến cho em những kỉ niệm đáng nhớ cùng gia đình và người thân và cũng là mùa em mong đợi nhất”.

Và bây giờ là mấy vần thơ ‘con cóc’:

Cái trống trường em
Mùa Hè cũng nghỉ.
Suốt ba tháng liền
Trống nằm ngẫm nghĩ


Bài thơ vui này đã phản ánh tâm tư về những mùa Hè trong quá khứ của nhiều thế hệ : cứ sau lễ bế giảng năm học, là chúng ào về các quê nội, quê ngoại, hưởng thụ một mùa Hè tuyệt vời. Thật thì chúng được “thả rông” về ruộng đồng, thôn xóm, để tận hưởng những ngày tháng mục đồng đến mức ‘hoang dã’. Chúng chỉ cuống quýt trở lại mái trường vào ngày khai giảng đầu tháng 9, với làn da cháy nắng, gót chân còn dính bùn.

Còn bây giờ, nghỉ Hè không chỉ là đùa giỡi cho hết 3 tháng ròng rã. Phải đi vào cõi ‘vừa chơi vừa học’. Không phải học với bài vở trong lớp, nhưng học để mở mang kiến thức. Thành ra lợi ích lớn gấp hai. Các phụ huynh bắt đầu hiểu rõ và thực hiện điều này.

Ba tháng tạ từ



Nhạc sĩ danh tiếng Thanh Sơn năm nào tại quê nhà ‘chuyên trị’ về chia tay mùa hè, xa bạn nhớ thày, tạm biệt mái trường…đã đưa tên tuổi mình lên tuyệt đỉnh khi cho ra mắt nhạc bản trên đây. Đặc biệt với giọng ca Thanh Tuyền, thính giả như đồng cảm bồi hồi theo giòng nhạc : “Người ơi, thấm thoát niên học hết rồi, chúc nhau cạn lời giây phút ly bôi. Ngày mai tan trường mình không chung lối, thương nhau nhiều biết gửi về mô”…”

Ai cũng nói rằng tuổi học trò là một trong những giai đoạn đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Vì lúc đó ta có đủ thầy cô, bè bạn và cả người ta yêu đầu tiên. Đặc biệt ta và ‘bạn ấy’ đã cùng nhau trải qua biết bao điều tuyệt diệu đầu đời : cùng nhau đến trường, kèm theo những buổi học bài trong thư viện, những cái nắm tay , những nụ cười nhẹ đầy nỗi ngại ngùng, hay thậm chí cả những lần giận hờn vu vơ vì một chuyện cỏn con nào đó…Làm sao có thể quên được đây, cái gọi là tình ngây ngô thời học trò đầy khờ khạo nhưng thật ngọt ngào, dễ thương không chịu nổi ! Ấy thế mà hè tới phải chia tay. Nhất là chia tay vĩnh viễn vì hoàn cảnh gia đình phải rời xa. Mà trong trường hợp lên đại học, vào cuối học trình, chàng phải ‘xếp bút nghiên’ mà ra chiến trường bảo vệ đất nước, chuyện chia lìa cũng không kém não nùng xót xa.

Và tình yêu học trò ấy, thường cũng là tình yêu đầu, thì lúc nào cũng chóng vánh, nhưng là kí ức khó phai mờ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Thành ra, khi mùa hè tới, trường bế giảng niên học, các bạn trẻ hay bị nhói tim thổn thức lắm.

Mời bà con thưởng thức bài thơ ‘Hè về nhớ nhau’ của 1 tác giả ẩn danh :

“Bây giờ đường rộn tiếng ve,
Ngàn hoa phượng nở khi Hè vừa sang
Bâng khuâng dưới ánh nắng vàng
Tặng nhau cánh phượng ai mang đi rồi.
Ngày xưa chỉ có vậy thôi
Có ai biết được để rồi cách xa.
Mùa Hè từng đã vụt qua
Tiếc hoài cái tuổi ngọc ngà chẳng quên
Nỗi buồn không thể đặt tên
Nhẹ nhàng nhưng mãi nổi lên trong lòng
Ai còn nhớ kỷ niệm không?
Ngày xưa, một cánh phượng hồng ta trao”.


Tình học trò, tình đầu, thường khó quên như thế đó. Chả mấy ai không một lần vấn vương trong đời. Tại quê nhà, trong khung cảnh miền nhiệt đới, hễ hè về là có hoa phượng, nhắc chúng ta chuyện học đường, thày cô, bạn hữu và nhất là ‘người yêu’ xa vắng nào đó. Bao người không tránh khỏi tâm sự bồn chồn luyến tiếc. Và đó cũng là duyên cớ để bao văn thi nhạc sĩ sáng tác, trao tặng cho thế nhân những tác phẩm trữ tình tuyệt hảo.

Bồi dưỡng tinh thần và thể xác :



Nói chuyện học đường, 3 tháng hè là thời gian để các em học sinh nghỉ ngơi, thư giãn sau 9 tháng học tập căng thẳng. Đối với học sinh cuối thời trung học, kỳ nghỉ hè càng có ý nghĩa, khi các em vừa trải qua những kỳ thi quan trọng. Mùa hè, không phải gia đình nào cũng có điều kiện để tổ chức các chuyến ‘tham quan’ nghỉ mát miền xa tốn kém, hoặc ghi tên cho con em tham gia các lớp đặc biệt về ‘phát triển năng khiếu’. Đa số các em học sinh chỉ có thêm lớp ‘học hè’ bổ túc. Đối với những học sinh này, điều các em chờ đón nhất trong 3 tháng này chính là các hoạt động sinh hoạt hè tại địa phương.

Có vị đề nghị như sau : ngay từ đầu hè, phụ huynh nên ‘chủ động’ tạo chương trình và sắp xếp công việc, để cả gia đình cùng có một kỳ nghỉ ngắn ngày, nhằm thay đổi không gian sống, tạo cho trẻ sự hào hứng, vui thích. Ngoài ra có thể thực hiện một số hoạt động đơn giản khác, như tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động ‘dã ngoại’, hay để cho chúng được vui chơi qua các môn thể thao phổ thông, thể hiện sự sáng tạo của tuổi học trò. Dĩ nhiên thể xác cũng khỏe mạnh hơn.

Nói một cách tổng quát, ai cũng hiểu từ ngữ ‘nghỉ hè’ là để nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Làm việc, lao động là niềm vui mà cũng là bổn phận phải đóng góp với đồng loại, mong phát triển mọi khía cạnh của cuộc sống nhân sinh. Nhưng nếu cứ ngày đêm làm nô lệ cho công việc thì lại tai hại khôn lường. Giáo Hội Công Giáo nhắc tới chuyện chính Thiên Chúa cũng nghỉ ngơi sau 6 ngày tạo dựng vũ trụ. Đây là một tư tưởng chỉ đạo cho việc lao động con người. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội vật chất hiện nay, có quá nhiều điều ‘bất cập’ đang xảy ra : lạm dụng sức lao động thái quá. Cụ thể là không cho các nạn nhân cơ hội nghỉ ngơi cần thiết.

Học thuyết xã hội Công Giáo nhắc đi nhắc lại điểm này, kêu gọi các quốc gia cố gắng canh tân luật lao động, cho ai nấy được làm việc và nghỉ ngơi xứng đáng với phẩm giá con người.

Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II có lần lên tiếng với giới trẻ như sau : “Điều quan trọng là việc nghỉ ngơi không rơi vào trống rỗng (vì trong trường hợp đó thì không có nghỉ ngơi thực sự). Những ngày nghỉ cần phải được đan dệt bằng những cuộc gặp gỡ. Cha nghĩ đến cuộc gặp gỡ với thiên nhiên, với núi rừng, với biển cả. Con người, khi gặp gỡ thiên nhiên, sẽ tìm lại được sự bình an nội tâm. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả ý nghĩa của việc nghỉ ngơi. Còn một ý nghĩa nữa. Đó là việc gặp gỡ với Đức Kitô, và ý nghĩa này mới là điều mới mẻ. Nghỉ ngơi là mở mắt tâm hồn để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong thế giới, là mở tai nội tâm để lắng nghe lời của Ngài là chân lý… Một cách đặc biệt, Cha chúc giới trẻ các con có được cách thức nghỉ này… Cha biết là có nhiều bạn trẻ đã biết sử dụng mùa nghỉ hè vừa như thời gian thư giãn, vừa như thời gian đặc biệt để gặp gỡ Chúa, trong cộng đoàn tình nghĩa bạn bè. Cha nói điều này từ chính kinh nghiệm cá nhân của Cha, vì như giám mục và linh mục, Cha đã trải qua nhiều mùa nghỉ hè với các bạn trẻ”..

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư