Wednesday, June 13, 2018

VUI NGÀY HIỀN PHỤ

Truyền thống Gia Đình

Mới đây nhạc sĩ Ngọc Sơn tại quê nhà có sáng tác bản nhạc mang tên ‘Tình Cha’, phút chốc thành phổ thông khắp chốn (vươn lên hàng ‘Top Hit’). Mấy câu mở đầu đã đủ gây xúc động không ít:

Tình cha ấm áp như vầng thái dương
Ngọt ngào như dòng nước trôi đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan
Ân tình đậm sâu bao nhiêu.


Rồi năm ngoái ‘trang nhà’ của Giáo phận Phát Diệm có đăng một loạt bài ca tụng tình cha nhân ngày Hiền Phụ, trong đó có bài thơ ‘Lòng Cha’ với mấy câu dạo đầu khá độc đáo như sau:

Giọt máu mầm sinh nối tiếp,
Từng sợi tóc chỉ tay biết thân phận.
Sang hèn định mệnh theo vận,
Thượng Đế an bài số phận đời con.
Mối tình duyên nợ sắt son.
Cuộc đời gắn bó cha con không rời.


Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Hiện nay, Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước, kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ, đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Theo Robert J. Myers, nhà nghiên cứu lịch sử các ngày lễ tại Hoa Kỳ, thì nguồn gốc Ngày Hiền Phụ (Father's Day) đã xuất hiện từ thời La Mã cổ. Thuở xa xưa ấy, Ngày Hiền Phụ được người La Mã gọi là Parentalia, được cử hành từ ngày 12 đến 22 tháng 2 mỗi năm. Thời đó mục đích cử hành ngày Parentalia chỉ để tưởng niệm những người cha đã quá cố, không liên quan gì đến những người cha còn sống. Trong ngày lễ này, các thành viên trong gia đình nhóm họp lại và mang bánh, rượu, sữa, mật, dầu ô liu đến nghĩa trang, đặt trên phần mộ người cha quá cố đã được trang hoàng hoa nến. Kết thúc những giây phút cầu nguyện và tưởng niệm, trong nghi lễ gọi là Caristia (Tình Thương), mọi người tham dự cùng chia nhau dùng các lễ vật nói trên để chứng tỏ họ đã chu toàn trách nhiệm báo hiếu với người cha đã quá vãng…

Có học giả lại tuyên bố rằng Ngày Hiền Phụ đã có từ thời Babylon bị tàn phá. Một thanh niên tên là Elmesu đã khắc Thông điệp Ngày Hiền Phụ trên một tấm thiệp bằng đất sét gần 4.000 năm trước. Elmesu ước mong cha mình có sức khỏe tốt và sống lâu.

Ý nghĩa cao đẹp

 

Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng, vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

Thiên Chúa gầy dựng gia đình tiên khởi với ông A-dong bà E-và, với ý nghĩ ông là đầu và bà là trái tim trong một thân thể. Vai trò hệ trọng của người cha cần được trân trọng tuyệt đối, dù trong xã hội nào đi nữa.

Trong tương quan ‘Con-Cha’, ngày Hiền Phụ là ngày giúp con cái nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Do đó việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình..

Quả thực, những người Cha cũng đáng được tôn vinh như những người mẹ, vì họ đã từng dày công vun đắp, dưỡng dục cho những người con thân yêu của mình và tạo lập cơ ngơi cho gia đình. Thiếu vắng bóng dáng của người cha trong gia đình, những người con sẽ cảm thấy hụt hẫng và mất đi một chỗ dựa rất lớn nên tục ngữ có câu: "Con không cha như nhà không nóc". Những người cha dạy cho con trai biết bảo vệ, che chở cho mái ấm gia đình và dạy cho con gái sự can đảm để vượt qua trước những thử thách cam go.

Ngày lễ tri ân người thân trong gia đình như Ngày của Cha là một món quà ý nghĩa, chứa đựng tấm lòng của con cái đối với cha mình. Đây vừa là nét đẹp trong cách đối nhân xử thế, vừa là ngày gắn kết tình cảm giữa những người thân trong gia đình với nhau, giúp gia đình thêm yêu thương và hiểu nhau hơn. Mục đích của ngày này là cùng với Ngày của Mẹ, con cái có dịp thể hiện và bày tỏ tình yêu thương, kính trọng với những người cha của mình. Trên thế giới ngoài ngày Chúa Nhật thứ 3 của tháng 6 thì còn có nhiều ngày kỷ niệm dành cho cha nhưng nói chung, trong bất kỳ ngày kỷ niệm nào đều có hoa, quà tặng, bữa tối ấm cúng cùng cha và những hoạt động gia đình thân mật.

Không có niềm vui nào sánh được với nụ cười của cha mẹ khi con cái luôn ngoan ngoãn và thành đạt. Vậy thì, hãy biến bất cứ một ngày bình thường nào cũng trở thành Ngày của Cha. Hãy yêu thương, trân trọng những phút giây bên cha, bên gia đình, đừng để đến lúc nhận ra giá trị đích thực của cha, của gia đình trong cuộc sống thì mọi thứ đã muộn màng.

Với người Ky tô hữu

 

Mừng ngày Hiền Phụ, chúng ta nhớ công ơn trời biển của cha mình. Đây là dịp mỗi người con trong gia đình thể hiện lòng tôn kính, nhớ ơn công ơn dưỡng dục sinh thành. Điều này chính là thực thi điều răn Chúa dạy: “Phải thảo kính cha mẹ”. Với người tín hữu, người Cha sinh thành phần xác nhưng cũng là người Cha của Đức tin, đã thông truyền cho con cái ơn gọi làm con Chúa. Xin cho các bậc làm Cha luôn được sống an vui trong Thiên chức ‘Mục tử tại gia’, luôn trở thành gương sáng cho con cái, noi gương Thánh Giuse, người Cha thánh thiện trong gia đình Nagiarét.

Tại vài quốc gia có đông người Công Giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Thánh Giuse ( người cha trong nhà ‘Thánh gia’), ngày 19 tháng Ba hằng năm. Lời cầu tổng quát ngày đó là thế này:

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xin chúc lành cho những người cha trên thế giới, xin hướng dẫn những người cha biết yêu thương và làm gương lành cho con cái, xin biến đổi họ trở nên những người cha như chính Chúa là Cha, xin ban cho họ tràn đầy hồng ân và kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh với lòng yêu thương đích thực. Amen.

Sau đây là lời tri ân mẫu mực một người con hiếu thảo và ngoan đạo lên tiếng: ”Chúng ta hãy tự hào về cha yêu cha mình thật nhiều. Hãy dành cả tấm lòng cho người cha đáng kính, người đã dành cả tình yêu thương cho những đứa con từ khi chập chững cho tới khi trưởng thành. Xin Chúa trả công bội hậu cho cha con! Người sinh thành và dưỡng dục con. Ôi, Chúa ơi! Con tri ân Ngài lắm! Vì con sung sướng hơn nhiều anh chị em của con, những người đã không còn cha trong giây phút trọng đại này! Xin Chúa hãy làm người cha thân yêu của họ để họ mãi mãi ở lại trong Chúa mà cảm mến tình cha nồng ấm. Nhân ‘Ngày của Cha’ con cũng chúc Chúa và các thánh (là các Đấng đã làm cha) một ngày Father's Day vui vẻ! Con cũng xin chúc mừng cha thân yêu của con và tất cả các bậc làm cha”.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Tuesday, June 5, 2018

CÔNG GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM

Phần đóng góp bao la:

Nằm trong cái ‘gói văn hóa’ của một dân tộc, người ta luôn phải nói tới tổ chức xã hội, truyền thống gia đình, phong tục xóm làng, nghệ thuật dân gian, hệ thống giáo dục, đời sống tâm linh tôn giáo, ngôn ngữ và chữ viết…Mà mấy quốc gia láng giềng của nước ta tại vùng Đông Nam Á, hễ nhắc tới dân Việt là tức khắc họ ‘ghen tỵ’ với ta vì cái ‘báu vật’ CHỮ QUỐC NGỮ. Cái thứ chữ viết này bà con trăm họ đều biết rõ là do công lao của các vì thừa sai Công Giáo, từ Âu Châu qua góp công thành hình ra nó (nhất là với tài khéo và cố gắng của cha Đắc Lộ). Cái báu vật ấy nó sẽ nằm sâu trong tâm tưởng mọi con dân nước Việt cho đến dài lâu. Nó cũng đánh dấu một bước ngoặc trọng đại trong công cuộc phát triển nền văn minh của con cháu Lạc Hồng.

Từ đầu, ở cái thời lệ thuộc nước Tầu, dân ta dĩ nhiên chỉ biết chữ NHO (Hán tự); và rồi ráng tìm ra một thứ gì riêng tư của dân Việt, chúng ta đã tìm ra chữ NÔM (đời nhà Trần). Nhưng cả 2 thứ đều khó khăn phức tạp khôn tả.

Dĩ nhiên khi tìm sáng chế ra chữ quốc ngữ, các nhà truyền giáo nhằm tiên khởi giúp cho việc ‘dạy đạo’ được dễ dàng, nhưng rồi vô hình chung đã đem một món quà to lớn cho cả dân tộc chúng ta. Theo sử liệu, 2 nhân vật người Việt đầu tiên để lại bút tích chữ quốc ngữ là thày giảng Văn Tín viết một thơ dài gửi qua bề trên tại Roma năm 1659. Kế đó cũng là một thày giảng tên Thiện, cùng năm đó, viết thơ dài 2 trang gửi một linh mục thừa sai tên là Marino.

Kế tiếp là sự góp phần bổ xung của Giám mục Bá đa Lộc (Pigneau de Behaine=cha cả, từng có lăng tại Saigon), giáo sĩ dòng Tên Philippe Bỉnh (vừa là văn sĩ, thi sĩ, sử gia), và giáo sĩ ‘tử đạo’Phan văn Minh rất giỏi cả văn lẫn thơ.

Vào chi tiết Văn Học:



Nói về những ‘văn hữu’ cỡ lớn của Công Giáo vào thời đầu chữ quốc ngữ, thì ta phải kể tới 2 ông Petrus Trương vĩnh Ký và Paulus Huỳnh tịnh Của.

Trương vĩnh Ký rất thông minh, giỏi chữ Hán, chữ Nôm, quốc ngữ, Pháp và La tinh cùng vài ngôn ngữ Á châu khác. Ông dịch thuật và sáng tác thơ văn hầu như không biết mệt mỏi. Suốt 35 năm liền, ông để lại một di sản văn học vĩ đại, khiến dân gọi ông là một nhà bác học.

Còn Huỳnh tịnh Của nổi tiếng với tờ báo ‘tiền phong’ Gia Định Báo. Ngoài nhiều văn phẩm, ông còn cho ra cuốn tự điển có cả chữ Nôm và Quốc ngữ, mang tên ‘Đại Nam quốc âm tự vị’. Văn hữu Phạm thế Ngũ gọi ông là một ân nhân, đã làm một việc phi thường cho nước nhà.

Nối gót 2 vị tiên phong này, ta còn ghi nhận công lao của văn sĩ Phan-xi-cô, gốc gác là một nhà sư Phật giáo. Ông viết rất nhiều, nay còn lại bài văn tế ‘Cầu hồn’ nổi tiếng; rồi tới Linh mục Lữ Y Đoan, có nhiều tác phẩm thơ giá trị, nhất là tập ‘Sấm truyền ca’. Sau đó là danh nhân Nguyễn trường Tộ, nổi tiếng với những sớ (điều trần) dâng vua Tự Đức đề nghị canh tân nước nhà.

Những áng văn này đề cập mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia. Rồi tới Linh mục Đặng đức Tuấn, viết nhiều tác phẩm thơ văn, cùng với mấy bản điều trần giá trị lên vua Tự Đức. Rồi ‘cụ cử’ Thiện sáng tác nhiều ‘ca vãn’ tôn giáo rất hay. Kế là ông Mai lão Bạng, viết nhiều thơ nổi tiếng. Giáo sĩ Trần Lục nổi tiếng với việc xây dựng thánh đường đá Phát Diệm, nhưng cũng được biết qua những áng thơ như ‘Hiếu tự ca’, ‘Ca vè cụ Sáu’…

Nói về các văn hữu Công Giáo cựu trào, người ta kể tên các vị này: ‘Phước môn’ Nguyễn hữu Bài, ‘Tiểu cao’ Nguyễn văn Mại, ‘Đại thần’ Ngô đình Khả, ‘Giám mục’ Hồ ngọc Cẩn và ‘Linh mục’ Nguyễn văn Thích. Riêng về thơ thì chả ai quên được tên tuổi của Hàn mạc Tử.

Mới hơn thì danh sách các văn hữu Công Giáo đóng góp cho nền văn học Việt Nam sẽ rất dài: Ngoài một số rất lớn các Linh mục Tu sĩ từng xuất bản sách hay viết báo như Hồng Phúc, Phạm châu Diên, Nguyễn trọng Tước…còn có tên của các vị như Trần đình Ngọc, Nguyễn ngọc Ngạn, Cao thế Dung, Lê bá Kông, Trần phong Vũ, Quyên Di, Triều Khê v.v…

Công tác giáo dục:



(cổng trường ĐH Công Giáo Dalat trước 1975)

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn coi trọng việc đóng góp vào việc giáo dục cho giới trẻ: Bao trường trung và tiểu học nhan nhản khắp nơi. Tại miền Nam vào năm 1969, tính ra có tới 1030 trường tiểu học của các giáo xứ, với gần nửa triệu học sinh. Các trường trung học nổi tiếng thì phải kể tới Tabert và Nguyễn bá Tòng Saigon, Dũng Lạc Hà Nội, Thiên Hựu Huế, Adran Dalat… Riêng về bậc đại học thì năm 1962 có Đại học Công Giáo tại Đà lạt rất thành công. Viện trưởng tiên khởi đại học Huế là Linh mục Cao văn Luận. Đại học Văn khoa Saigon có tới 6 viện trường người Công Giáo. Tên các giáo sư đại học danh tiếng một thời như LM Lương kim Định, LM Trần văn hiến Minh, LM Bửu Dưỡng, LM Hoàng quốc Trương, SH Trần văn Nghiêm, SH Nguyễn văn Kế, rồi GS Nguyễn văn Trung, GS Lê hữu Mục, GS Phạm việt Tuyền, GS Nguyễn văn Thọ…

Cũng nổi tiếng và giảng dạy về Mỹ Thuật thì có những tên tuổi như KTS Ngô viết Thụ, KTS Trần quang Đôn, KTS Đinh xuân Bình, rồi Họa sĩ Lê văn Đệ, HS Vi Vi, HS Nam Phong, HS Cao Uy…Tất cả đều rất nổi danh tại miền Nam VN.

Cũng kể vào mục Giáo dục, ta nên nhắc tới phần Báo chí Truyền thông: Đương nhiên các giáo phận thường có tờ báo riêng, rồi toàn quốc cũng có báo lớn như Thẳng Tiến, Sacerdos, Tinh Thần, Hòa Bình, Hiệp Nhất, Sống Đạo… (phong phú về cả nguyệt san, tuần báo hay nhật báo).

Tất cả các đan cử trên đây chỉ là con số tượng trưng nhỏ bé. Thật sự còn danh sách thật dài những chứng minh cụ thể nói lên sự góp phần to lớn và lâu dài của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Thật ra, những đóng góp giáo dục về mặt trí thức thì coi như ‘hữu hình’, có thể nói tới những con số và tên tuổi, nhưng về mặt ‘vô hình’, tâm linh, thì phải nghĩ tới những hậu quả cao quý của những giáo huấn tôn giáo nơi đạo Công Giáo: Theo đạo Chúa là đón nhận niềm tin linh thiêng, là cố gắng sống những giới luật tuyệt vời của Chúa và Giáo hội (qua các giới răn căn bản). Những thứ này hun đúc huấn luyện nên những con người cao đẹp về tinh thần, sống vị tha bác ái, làm gương tốt cho tha nhân, tuân giữ mọi kỷ cương thể chế của xã hội. Người ta gọi họ là những ‘con chiên ngoan đạo’, xây dựng cộng đồng xã hội vô cùng tuyệt hảo…

Nghĩa là với ngàn vạn người Công Giáo tốt, dân tộc Việt Nam đã và đang làm vang danh giống nòi, tổ tiên Lạc Hồng.

Qua phần đóng góp nghệ thuật:



Bây giờ nói tới công tác của các ca nhạc sĩ Công Giáo: Thật ra từ các ca đoàn nhà thờ, bao ca nhạc sĩ đã vươn lên và thành công lớn, góp phần không nhỏ vào chuyện nghệ thuật trình diễn trong đại chúng.

Bắt đầu với thời tiền chiến, nhạc sĩ tài hoa Hùng Lân đã viết bài ‘Hè về’ và ‘Khỏe vì nước’ được cả nước cùng hát. Kế đó là bản ‘Việt Nam minh châu trời đông’ xém được chọn làm quốc ca. Thêm vào đó là ca khúc ‘Rạng đông’ khá thịnh hành, rồi tập nhạc ‘Vui ca lên’ dành cho các thiếu nhi. Riêng về thánh ca thì bản dịch ‘Đêm thánh vô cùng’ đang được xử dụng rộng rãi trong nước cũng như hải ngọai ở mỗi mùa Giáng sinh. Hùng Lân sáng lập và làm đoàn trưởng nhạc đoàn ‘Lê bảo Tịnh’ vang danh một thời. Ông cũng là giáo sư âm nhạc trường Chu văn An, và cho in tập lý thuyết âm nhạc tiên khởi ‘Cây đàn sống’ năm 1949, và sau đó là bộ sách ‘Giáo khoa âm nhạc’. Dân chúng nhớ ơn ông như một trong các nhạc sĩ tiên phong khai phóng nền âm nhạc và ca hát bằng Việt ngữ, với gia tài hàng trăm ca khúc đủ các thể loại.

Vào Nam năm 1954, ông tiếp tục dạy nhạc tại trường ‘Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ’ tại Sài Gòn. Chính phủ cũng mời ông làm chủ sự phòng phát thanh học đường thuộc bộ giáo dục. Và rồi tổ chức chương trình ‘Đố vui để học’ trên đài truyền hình quốc gia từ năm 1969. Sau cùng, ông được mời dạy môn ‘sư phạm âm nhạc’ tại viện đại học Đà Lạt. Ông cũng để lại những tác phẩm như ‘Nhạc lý toàn thư (1960); ‘Dân ca Việt Nam’(1972); ‘Thuật sáng tác & Âm nhạc thực hành’ (1974)… Ông qua đời năm 1986 trong khi đang còn dạy nhạc tại tư gia.

Nối tiếp Hùng Lân, người ta thấy có nhạc sư Hải Linh, nổi tiếng nhất với những bài hát đạo như ‘Hang Be Lem’, Tán tụng hồng ân’, ‘Tiếng nhạc oai hùng’ và Nữ vương hòa bình’. Ông cũng viết nhiều bản hợp xướng như ‘Đà Lạt trăng mờ’, ‘Hương quê’, ‘Lòng mẹ’, ‘Chinh phụ ngâm’…rất phổ thông. Năm 1956, sau khi tốt nghiệp nhạc tại Pháp, ông dạy môn hợp ca tại viện quốc gia âm nhạc, rồi Đại học Đa Lạt. Di tản qua Mỹ, ông cũng sinh hoạt âm nhạc rất thành công cho tới ngày qua đời (1988).

Linh mục Tiến Dũng cũng được nhắc tới nhiều về kiến thức âm nhạc: Học nhạc tại Roma xong, ngài về liên tục dạy nhạc nhiều nơi, kể cả trường quốc gia âm nhạc, rồi làm khoa trưởng nhân văn nghệ thuật tại đại học Minh Đức. Ngài lập trường ‘Suối nhạc’ năm 1968 dạy mọi thứ về âm nhạc. Ngài qua đời năm 2005.

Bây giờ ta nói tới một số ca nhạc sĩ Công Giáo khác đã và đang nổi danh (không kể các vị chỉ sinh hoạt về thánh ca): Trần thiện Thanh (Nhật Trường), Hoàng Oanh, Hoài Bắc, Trúc Giang, Thu Hồ, Đức Huy, Ngọc Huệ, Vũ Khanh, Khánh Ly, Như Mai, Từ công Phụng, Châu đình An, Anh Bằng,Việt Dũng, Tuấn Vũ, Ngọc Lan, Trúc Hồ, Anh Dũng, Kim Anh, Vũ thành An, Tuấn Đức, Trúc Sinh…Và còn nhiều nữa.

Tất cả đã tỏ ra yêu nghệ thuật trình diễn, muốn góp phần vào nền văn hóa Việt Nam, nhất là vẽ lên và giữ lại những sắc thái và hình ảnh Việt Nam qua âm nhạc, kể cả phần ca múa đi kèm.

Mong sao những ước mơ cao đẹp của các nghệ sĩ Công Giáo còn tiếp tục khởi sắc, chung tay đẩy mạnh và bảo tồn những thứ cao quý nhất của dân Việt.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư