Thursday, March 29, 2018

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU ?

Lm Giuse Nguyễn Văn Thư
29/Mar/2018

Giấc mơ ‘cõi phúc’ :

Ngày chạy tỵ nạn và đặt chân được tới Mỹ, chúng ta thầm nghĩ và thiên hạ cũng bảo chúng ta được may mắn vào chốn thiên đàng. Nhưng rồi qua thời gian, bà con ta mới nhận ra đây chỉ là ‘thiên đàng giả’. Nhiều gia đình thiếu may mắn còn ví nơi đây đang trở thành ‘hỏa ngục’ nữa !

Kinh thánh đạo Chúa kể về chốn ‘địa đàng’ của 2 ông bà nguyên tổ Adam và Eva : Một cõi sung sướng tuyệt vời, không khổ đau, không lo lắng, không bệnh tật và không cả phải chết. Chỉ tiếc cõi ấy đã không kéo dài, do tội bất tuân lệnh Chúa, nên ông bà bị đuổi ra khỏi ‘khu vườn’ hạnh phúc ấy, và rồi cũng để lại bao hệ lụy phiền toái cho đàn con lũ cháu dài lâu…

Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh ‘tượng trưng và hữu hình’ mong diễn tả chốn thiên đàng ‘thứ thiệt’ : Thánh kinh còn nói xa gần rằng ‘thiên đàng thật’ còn hơn cả một ‘nơi chốn’, nghĩa là một trạng thái ‘phi vật chất’ mà trí óc ta ngày nay chỉ ‘phỏng đoán’ ra phần nào cái hạnh phúc khi được bước vào. Dĩ nhiên hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên cạnh Chúa.

Còn nhà Phật thì nói về cõi niết bàn ta mong được vào thế này : người nào may mắn được sanh vào một trong các cõi phước, là nhờ vào thiện nghiệp của họ (được tích lũy trong những kiếp làm người trước đây). Chuyện tái sanh xảy ra trong những hình thức hiện hữu khác nhau, và tùy vào nghiệp lực của chính họ, mà không do sự ảnh hưởng của bất kỳ đấng siêu nhiên nào. Nhưng không ai có thể ở mãi trong những cảnh giới này, bởi vì năng lực thiện nghiệp của họ thì có hạn, và khi nó cạn kiệt họ phải xoay chuyển theo nghiệp tích lũy trước đó. Do đó Phật giáo nói rằng thiên giới và địa ngục không phải là những nơi chốn vĩnh hằng, mà chúng sanh có thể thọ hưởng hay gánh chịu mãi mãi.

Vào thời cổ, người ta nhắc tới chuyện ‘Utopia’ : cõi hạnh phúc lý tưởng của một xã hội tuyệt đối hạnh phúc. Nơi đó, tôn giáo cởi mở, mọi người đều hăng say lao động, của cải là thuộc về cộng đồng, những thói xấu và các ác không hề tồn tại…Cái địa đàng không tưởng Utopia cho tới hôm nay vẫn luôn vẫy gọi bao tâm hồn đi tới, không ngừng nỗ lực vì một xã hội ngày mai tốt đẹp hơn, công bằng hơn cho tất cả. Chi tiết được tác giả là chính thánh Thomas More ráng viết lên (thành một truyện giả tưởng) để kêu gọi con người cùng nhau tiến về mục tiêu cao đẹp này. Tập sách thiết kế một chế độ chính trị và xã hội có khả năng giúp cho con người được no ấm và hạnh phúc. Nó khẳng định rằng con người chính là rào cản của chính mình, bắt nguồn từ lòng ngạo mạn, ý thích được hơn người, được coi là quan trọng, vốn bắt rễ rất sâu trong mỗi cá nhân. Những giải pháp cho mọi vấn nạn nhân gian trong Utopia đưa ra những ước mơ và nền tảng tư tưởng, đã thật sự làm kinh ngạc và xúc động lòng người. Chữ “UTOPIA” đã trở thành một danh từ trong ngôn ngữ của nhiều nước, đứng tên cho cái mơ ước triền miên của nhân loại, trên con đường tự hoàn thiện mình để tạo hạnh phúc thật.

Cõi vĩnh hằng thật mai sau :

Giáo huấn Công Giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo: "Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa sẽ được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời... Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng."

Sau khi chết, mỗi linh hồn phải đối diện với "sự phán xét riêng tư", để hoặc được vào Thiên đàng ngay, hoặc tạm phải thanh luyện nơi Luyện ngục (Purgatory), hoặc vô phước chịu phạt vào Hỏa ngục. Ý niệm này khác với "sự phán xét chung" hoặc "sự phán xét sau cùng" khi Chúa Giê Su trở lại để phán xét mọi kẻ sống và kẻ chết.

Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, nên người chết trong tội lỗi không được phép vào. ”Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ sẽ nhìn thấy Ngài mặt đối mặt”.

Thiên đàng chính là trạng thái hoàn toàn viên mãn tuyệt đối. Thuộc sở hữu của Thiên Chúa trong thị kiến vinh phúc, mà các Thánh được trải nghiệm những gì không thể diễn tả bằng lời; một sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, trổi vượt hơn bất cứ điều gì ta có thể hình dung. Chính vì sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong Đức Kitô, các Thánh cũng sẽ trải nghiệm sự hiệp thông với các chi thể khác thuộc Nhiệm Thể Đức Kitô.. Dựa vào hình dung của Thánh Phaolô, sự hiệp thông các chi thể thuộc Đức Kitô trọn vẹn hơn sự hiệp nhất giữa ngón tay với bàn tay, vì Đức Kitô, Đấng làm cho mọi chi thể của Ngài nên một.

Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô cũng giúp chúng ta có được ý niệm sự vinh quang Thiên Đàng : trí năng của chúng ta sẽ được Thiên Chúa soi sáng, để chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa bằng thị kiến vinh phúc, có khả năng hiểu được nhiều mầu nhiệm cao siêu khác.

Thiên đàng ở giữa chúng ta :

Thiên Đường là nơi không có sự xấu xa, không có sự bất công và ghét ghen, Thiên Đường là nơi tốt đẹp của những linh hồn đã được thanh tẩy bằng máu Chúa Giê-su : nơi có tràn đầy tiếng cười , niềm vui , bình an và hạnh phúc, nơi đó mọi người là anh chị em với nhau, nơi không còn tội lỗi, nơi tràn đầy tình yêu thương. Đó chính là mục đích phấn đấu của những ai có lòng thương yêu người xung quanh, và luôn Tin , Cậy và Mến Chúa.

Thế nghĩa là gì ? Ta có thể dựng xây Thiên đàng ngay khi còn ở trần gian. Điểm cốt cán là có sự diện diện của Chúa trong đời mình. Chính Chúa Giê-su từng nói “Nước Trời ở giữa các con”. Tập sách ‘Utopia của thánh Thomas More muốn nhắc chúng ta về cái khả năng tạo một thứ ‘thiên đàng hạ giới’ ngay bây giờ. Nếu như thiên đàng là nơi có Chúa, thì chung quanh ta với những va chạm hằng ngày, trong những sự kiện xảy đền, đâu đâu cũng lộ ra hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương hiện diện. Ngay cả trong những lúc con người thất vọng não nề, hay khổ đau cùng cực, thì lời Chúa, tức là sự hiện diện của Chúa cũng kề bên: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai đang mang ách nặng nề, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”. Tình yêu đó không giới hạn trong một không gian nhỏ bé, sự hiện diện đó không ràng buộc trong một yếu tố vật lý, nhưng chan hòa trong từng ngóc ngách của kiếp nhân sinh, bởi Thiên Chúa vui thích ở giữa con cái loài người.

Mai-sen lên núi gặp Đức Gia-vê ít ngày, mà khi xuống thì khuôn mặt toả ra hào quang. Phêrô được thấy tí vinh quang Thabor đã xin làm lều ở lại…Còn Đấng sang trọng vô đối ấy lại từ bỏ cái nơi cao ‘chín tầng’, mà ‘đi xuống’ với con người, và vui sướng được ở với con cái loài người. Đấng ở thiên đàng đã mang cả thiên đàng đến trần gian, và tặng không cả thiên đàng ấy cho con người.

Thiên đàng đã ở trong ta, Thiên Chúa ở cùng ta. Cảm nghiệm được điều đó thì hạnh phúc cho cuộc sống hiện tại biết bao. Ta sẽ sống như Chúa sống, ta sẽ cư xử với nhau như với Chúa, ta sẽ làm việc cùng với Chúa, ta đón nhận buồn phiền đau khổ cùng với Chúa, ta thờ phượng và tin yêu cùng các thánh nhân, và ta biết mình không lạc lõng, khi gắn bó đời mình với một thiên đàng ngay tại trần thế.

Nói gọn nhẹ thế, nhưng đường vào thiên đàng chắc không phải đường cao tốc luôn êm ái dễ dàng. Đấng có kinh nghiệm nhiều nhất về ‘thiên đàng hạ giới’ đã tâm sự rằng phải đi qua cửa hẹp, phải vác thập giá, phải từ bỏ mình…nhưng rồi người ấy cũng bật mí rằng ai sắm cho mình cái căn cước có đóng dấu ‘Tình Yêu’ đỏ chót, kèm theo túi hành trang càng nhỏ càng tốt, trong có đựng đầy lòng tin, sự phó thác và tâm hồn thanh khiết…Lúc đó chẳng phải là mình phải tự đi vào thiên đàng, mà sẽ có đấng ‘cõng trên lưng’ hoặc chở vào trên cánh phượng hoàng.

Chúa muốn ở với chúng ta, nhưng chúng ta có chấp nhận để cho Chúa ở cùng, hay cứ tìm cách loại trừ Ngài, để bám víu vào một ‘thiên đàng không có Chúa’? Chúng ta đều nhớ lời Chúa dạy rõ ràng rằng cần phải tìm kiếm nước Đức Chúa Trời ngay bây giờ, trong đời trên đất này. Ngài ban lời hứa cho chúng ta, để khi tìm kiếm nước Trời, thì sẽ nếm trải được ơn phúc kỳ diệu, sự chu cấp ơn siêu nhiên từ Chúa. Điều này sinh ra những kết quả cao quý rất thực tế trong cuộc sống đời thường.

Nước Trời là vườn hạnh phúc đang ở ngay đây, nơi có Chúa hiện diện. Nước Trời là bến bờ hạnh phúc không ở đâu xa, mà nằm trong chính bản thân ta, khi ta đón nhận Con Thiên Chúa làm người. Đón nhận Ngài là đón nhận niềm vui của sám hối, của canh tân, của sự đổi đời cho mỗi ngày mỗi tốt hơn.

Hãy bắt đầu rủ nhau tìm kiếm nước Chúa và sự công chính Ngài ngay trong lòng mình và ngay bây giờ. Hãy quyết tâm tuân phục và làm theo ý chỉ của Chúa, thay đổi tâm tư mình cho hợp ý Ngài, từ những việc nhỏ bé nhất. Dần dần, chúng ta sẽ lớn lên trong nhận thức về Chúa và đường lối Ngài, khi đó ơn thiêng sẽ giúp biến đổi con người bên trong, để rồi ‘nước thiên đàng’ sẽ càng mở rộng trong lòng, và đời sống chúng ta sẽ đem lại kết quả thật bất ngờ. Một chi tiết cốt yếu : Hãy biết gặp Chúa qua việc cầu nguyện : Gặp Chúa qua hình thức cầu-nguyện, nhất là cầu nguyện mọi nơi mọi lúc, sẽ giúp ta có thể hình dung ra Thiên-đàng là thế nào. Cái chân-lý ‘Có Chúa là có Thiên-đàng’ phải được thể-hiện thực tế nhất ở việc ta liên kết mật thiết với Ngài qua lời kinh-nguyện.

Muốn được hưởng phúc thiên đàng mai sau, chúng ta phải liên tục chuẩn bị thiên đàng ngay từ trần gian này.

LM Giuse Nguyễn Văn Thư

Thursday, March 22, 2018

NHÌN LẠI DÂN VIỆT MỞ MANG BỜ CÕI

Lm Giuse Nguyễn Văn Thư
21/Mar/2018

Khởi đầu một lịch sử hào hùng



Với tấm bản đồ trước mắt, bà con Việt mình thấy rõ các mốc thời gian tổ tiên chúng ta đã mở mang thêm lãnh thổ. Sau khi hào hùng chống chọi người Tầu phương bắc để bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập quốc gia, các ngài đã nhìn xa trông rộng về tương lai dài lâu cho con cháu. Biết lợi dụng mọi hoàn cảnh thuận tiện để sở hữu thêm đất đai.

Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, lãnh thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.

Chuyện đổi thay về lãnh thổ là chuyện thường tình trong lịch sử các quốc gia trên toàn thế giới. Sau những đợt chinh chiến dù ngắn dù dài, người thua phải chịu thiệt thòi mọi mặt, kể cả việc mất ít nhiều đất đai. Cụ thể nhất và xảy ra đầu tiên là với trường hợp dân Chiêm Thành, sau những đợt đối đầu nẩy lửa với dân Việt, người Chiêm (nay cũng có tên là người Chăm hay Chăm-pa) đã hoàn toàn thất bại, đất nước suy tàn, dân tộc trở thành ‘người thiểu số’ sống sót cạnh dân Việt Nam.

Thời ‘người hùng’ Chế bồng Nga của họ hùng hổ đem quân ra tấn công ngay vào thành Thăng Long của ta 3 lần từ năm 1377, cướp bóc và bắt đem về nhiều thanh niên thiếu nữ làm nô lệ, khiến lắm người tưởng chừng dân Việt mất nước đến nơi…Dĩ nhiên, với lòng dũng cảm, đoàn kết và khôn khéo, dân ta đã lật ngược thế cờ. Chế bồng Nga tử trận.

Cuộc giao tranh Việt-Chiêm kéo khá dài. Tổng kết lại quá trình tiêu diệt Chiêm Thành như sau:

1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura.

2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất.

3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế.

4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi.

5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, lấy đất tới Phú Yên.

6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà.

7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận. lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ (cuối thế kỷ 18).

8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử nước Chiêm (thế kỷ 19).

Dân mình thích nhắc tới tình sử Huyền Trân công Chúa nhà Trần với vua Chiêm là Chế Mân: Đại Việt và Chiêm Thành đã trải qua những trận chiến liên miên không dứt kéo dài trong hơn 200 năm từ đời nhà Lý đến nhà Trần; chỉ đến khi cùng bị quân Nguyên xâm lược hai bên mới ngừng xung đột, chống kẻ thù chung. Tháng 2 năm Tân Sửu (1301), Thượng hoàng Trần Nhân Tông, người đã cải thiện bang giao với Chiêm Thành, đến thăm Chiêm Thành và được nhà vua Chế Mân đón tiếp nồng hậu. Trước khi về, Thượng hoàng được vua Chiêm xin cưới con gái là Huyền Trân công chúa, và được hứa tặng phẩm là đất đai, để mở rộng bang giao hai nước. Ngài hứa sẽ cứu xét. Từ đó, năm nào Chiêm Thành cũng cử sứ bộ tới Thăng Long xin cầu hôn. Đặc biệt đến năm 1305, khi Chế Mân chính thức đề nghị dâng hai châu Ô, Rí làm của hồi môn, thì nhà Trần không thể chối từ nữa.

Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Huyền Trân lên thuyền sang Chiêm Thành. Quan quân và dân chúng đến tiễn đưa công chúa rất đông. Truyền thuyết của người Chăm kể lại đích thân Chế Mân ra đón, mặc bộ quần áo màu trắng, giày đen thêu chim thần Garuda. Hôn lễ cử hành suốt ba ngày ba đêm và Huyền Trân đã được Chế Mân phong cho danh hiệu là ‘đệ tam hoàng hậu’ Paramecvari. Nhưng rồi cuộc tình kéo dài chỉ được 11 tháng thì Chế Mân băng hà.

Khi Huyền Trân lên đường sang Chiêm quốc, nhà Trần đã tiếp nhận 2 miền đất trên, rồi đổi thành Thuận-Hóa, cũng là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và phần đất cực bắc của Quảng Nam ngày nay. Dù thời gian có đổi thay, và thế gian không ngớt đặt chuyện thêm bớt châm biếm, nhưng muôn đời Trần Huyền Trân cũng vẫn là một anh thư nước Việt, hy sinh cá nhân để làm lợi cho tổ quốc.

Nam tiến thêm về đất Chân Lạp (Campuchia) :



Gốc nước Chân Lạp màu đỏ
Chân Lạp, nguyên trước là nước Phù Nam (Fu Nan) một quốc gia hùng mạnh theo văn minh Ấn Ðộ, lãnh thổ rộng lớn bao gồm ngoài Cao Miên và Nam Việt ngày nay, còn có thêm Hạ Lào và một phần miền đông biên giới Xiêm La.

Vào giữa thế kỷ thứ 6, người Chân Lạp (tổ tiên người Khmer (Miên) sau này) nổi lên chiếm nước Phù Nam, lần lần làm bá chủ, định đô ở Angkor. Sau thì nội bộ Chân Lạp chia rẽ vì tranh giành ngôi vua. Ðến đầu thế kỷ thứ 8, Chân Lạp chia thành hai nước: Lục Chân Lạp (Cambhupura) và Thủy Chân Lạp (Viadhapura). Một thế kỷ sau hợp nhất lại thành đế quốc Khmer cho đến giữa thế kỷ 15.

Kéo dài chiến tranh với Chiêm Thành trên một thế kỷ, tiếp đến đụng độ với các chúa Nguyễn (Đàng Trong), nội bộ xâu xé chia rẽ, lúc ngả theo Xiêm La, lúc theo về Việt Nam, nên đất nước Chân Lạp biến thành bãi chiến trường giữa hai nước lớn này.

Riêng chúa Nguyễn Phúc Tần đã có lần đem 3000 quân xuống đánh nhau với vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Vua này bị bắt, được tha về, nhưng buộc phải triều cống và tạo điều kiện cho lưu dân Việt tới sinh sống tại vùng Đồng Nai, Sai gon, Bà Rịa ngày nay. Sau khi Ông Chân qua đời, chúa Nguyễn đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi. Đáp lại, vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm, và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai khẩn trước. Thế là dân Việt ta chính thức có thêm đất từ Chân Lạp.

Kế đó, là cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn (con chúa Nguyễn phúc Nguyên) và vua Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620; nó không trực tiếp đem đến cho Đại Việt một phần đất đai nào, nhưng giúp rất nhiều cho cuộc di dân xuống phương nam của người Việt thời bây giờ. Nhờ cuộc hôn nhân này, mà chúa Nguyễn có thể lập được các trạm thu thuế đầu tiên ở vùng Gia Định, Biên Hòa. Nó xác định chủ quyền ở vùng đất Đông Nam bộ.

Việc khai phá mở mang tốt đẹp lại được nối tiếp lan rộng xuống vùng Mỹ Tho. Rồi sự đóng góp của hai nhóm Trung Hoa tỵ nạn Dương Ngạn Ðịch và Trần Thượng Xuyên (trốn nhà Thanh bên Tầu), là những món quà hiến dâng các chúa Ðàng Trong. Sau nữa, việc Mạc Cửu (cũng trốn nhà Thanh) đã dâng đất Hà Tiên, là thêm một tặng phẩm chiến lược độc nhất vô nhị. Uy quyền triều đình Thuận Hóa-Phú Xuân từ đây tỏa rộng từ Tiền Giang, Hậu Giang đến vịnh Xiêm La. Nhờ Hà Tiên dinh trấn, thế lực chúa Nguyễn còn đi xa hơn.[Mạc Cửu, người Quảng Ðông, buôn bán kinh doanh phát đạt, tập họp lưu dân lập thành bảy xã ở Hà Tiên, thấy Chân Lạp nổi loạn liên miên bèn dâng đất Hà Tiên, thần phục triều đình Thuận Hóa-Phú Xuân]. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh trấn Hà Tiên, làm phiên thuộc (tự trị), tiếp tục công việc khai hóa Hà Tiên; quan trọng hơn cả, là công tác canh chừng và ngăn chặn ảnh hưởng Xiêm La.

Tượng đài Mạc Cửu
Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam, mà cư dân chủ yếu là người Protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ 17. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.

Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chính yếu thông qua việc khai phá hoà bình, kết hợp với đàm phán ngoại giao, để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành. Thế kỷ 18 là thời gian nước Chân Lạp chính thức mang tên là Cao Miên (Campuchia). Lúc này họ chỉ còn phần đất ‘cao’: lục Chân Lạp, còn thủy Chân Lạp đã do dân Việt quản lý.

Sát nhập Tây Nguyên



Từ thời các chúa Nguyễn, các bộ lạc ở Tây Nguyên mà mạnh nhất là bộ tộc người Gia Rai với các vị tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng triều cống chính quyền Đàng Trong. Trước đây khu vực này là vùng độn giữa các nước Chiêm Thành và Chân Lạp, nó không thực sự thuộc về bên nào, mà khi thì thuộc Chiêm Thành, khi thì Chân Lạp, thậm chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao, tùy thuộc vào sức mạnh từng thời kỳ của các nước này

Vào năm 1830, vua Minh Mạng sát nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam, mặc dù không hề có người ‘Kinh’ sinh sống, cũng như quan Việt cai trị. Tây Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam. Ngày nay, Kinh Thượng một nhà. Cùng chung tay xây dựng đất nước.

Các sắc dân thiểu số lớn tại phương nam nay là Trung Hoa, Chàm, Kmer và người ‘Thượng’Tây nguyên.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Monday, March 5, 2018

HÃNH DIỆN LÀ NGƯỜI VIỆT

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
03/Mar/2018

Có chi thái quá hay bất cập ?


Tiên vàn, chúng ta hãy lướt qua tập sách của học giả gốc Tầu tên là Bá Dương viết, nhan đề ‘Người Trung quốc xấu xí’, kể ra những thứ không hay của con cháu cụ Mao. Tác giả chắc muốn nhắc người đồng hương ráng sửa sai cách sống cho hợp hơn với nền văn minh thế giới ngày nay. Ông mở đầu bằng loạt diễn thuyết ở đại học Iowa Mỹ vào năm 1984. Ông cũng nhắc đến mấy tác giả khác cũng viết như vậy về dân Hoa Kỳ, Nhật Bản…

Nhưng rồi đâu phải ai cũng ủng hộ đồng tình với ông Dương ! Khi ông chân thành nói lên những thói xấu cố hữu của dân ông, như khó hợp tác chung, tâm địa hẹp hòi, sống lộn xộn dơ dáy, ưa đả kích bạn bè, thích tìm trả thù vặt, cũng như chỉ kiếm lợi ích cá nhân và gia đình, thiếu bao dung, quen sống vô cảm, tự ái không mấy khi chịu nhận lỗi, hay thích khoa trương hãnh diện hão, kém mà không chịu khiêm tốn học hỏi nơi người ngoài…, thì bạn bè xem ra không vui với ông. Khi ông bảo kẻ thù lớn nhất của người Trung quốc là chính…người Trung quốc, thì ông bị bao kẻ nhao nhao lên phản đối. Nhưng ông vẫn bênh vực lập trường của mình, rồi hăng hái chứng minh vì những thứ đó mà nước Tàu chậm tiến quá, so với thế giới hiện đại.

Có anh bạn cũng khoái tư tưởng của ông Dương lắm, nhất là câu ông ngôn về quan niệm lệch lạc của người Tầu thế này: Bên Tầu ai cũng khoe nước mình có dân chủ, nhưng họ hiểu rằng “Mày là dân, còn Tao là chủ” ! Và anh bạn này hay kiếm dịp thử đem tâm tình dân Việt Nam ra bàn bạc mổ xẻ, theo chân ông Dương trước đây. Bàn như sau:

Thế kỷ trước, tại Việt Nam có học giả nổi tiếng Nguyễn văn Vĩnh, một lần viết báo bảo rằng dân Việt Nam có thói xấu là ‘gặp cái gì cũng cười’. Mà cười ở đây không phải cười tươi để khích lệ hay xây dựng, mà cười hóm hỉnh bí mật, cười ‘ruồi’ cho qua chuyện, cười khẩy như vẻ khinh bạc…Phải chăng đây là một dấu chỉ đặc trưng, nói lên tâm trạng dân mình lâu nay. Nó có thể nói lên sự vắng bóng của lòng chân thành với nhau, khiến xóm thôn thiếu hẳn đi tình người. Đây xem ra chỉ là một góc của vấn đề ?

Mới đây, tôi về thăm quê nhà, thấy hoàn cảnh dân chúng sống trong một xã hội kiểu ‘bao cấp, đã rất buồn lòng khi thấy đa số dân chúng xem chừng đang quen lối sống ‘ảo’ thế này:

Ai cũng có việc làm, nhưng không ai làm việc.

Ai cũng không làm việc, nhưng ai cũng có lương.

Ai cũng có lương, nhưng không ai đủ sống.

Ai cũng không đủ sống, nhưng ai cũng sống.

Ai cũng sống, nhưng không ai hài lòng.

Ai cũng không hài lòng, nhưng ai cũng giơ tay ‘đồng ý’.

Vào chi tiết, anh bạn thêm: “Tôi đọc nhiều sách của cả chục học giả Việt Nam cũ mới, từ Phan kế Bính, tới Phạm Quỳnh, rồi Đào duy Anh, Phan Bội Châu, Phan Khôi…, nay xin tóm gọn cái phần ‘tiêu cực’ thế này: nhìn cho kỹ, dân ta cũng thuộc diện khá ‘loạng quạng’: nào là cái dở về đạo đức nông cạn, ưa xu nịnh, hám danh hão, rồi làm việc thiếu sáng tạo, kém kiên trì dài lâu, không ưa hợp tác vì hay đố kỵ và thiếu chữ tín “.

Vậy bây giờ chúng ta thử ‘tản mạn’ vụ này xem sao nhé: Phải chăng phần nào mình đã bị lây tâm trạng người Tầu ? Hoặc vì 100 năm bị người Pháp đô hộ ? Dĩ nhiên chả thoát chuyện bị ‘lây’, nhưng chuyện cần nói là cái tinh thần ‘nô lệ’ vẫn phảng phất nhiều nơi. Cái tinh thần này kéo theo cái thái độ ỷ lại đáng lưu tâm. Rồi kết cục người ta suy ra tại sao nhiều người vẫn sống trong tâm trạng chia rẽ, phe nhóm, cục bộ. Kẻ dễ tính thì bảo tại vì từ thuở ban đầu, tổ tiên ta đã thích phân rẽ: Lạc long Quân mang 50 con xuống vùng biển, còn nàng Âu Cơ lôi 50 con lên miền núi…


Nhân chi sơ tính bản thiện


Câu nói lạc quan này của đức Khổng Tử tiên vàn phải áp dụng cho dân Việt chúng ta. Chẳng những có căn bản thiện hảo, mà còn luôn sống hào hùng bất khuất. Dẫu đó đây ta thấu nhiều thiếu sót và lệch lạc, và dù một số người thất học vì nghèo túng hay chiến tranh nên còn ‘kém văn minh’, nhưng nói chung dân ta khá dễ ‘phục thiện’ khi được hướng dẫn sửa sai. Này nhé, người mình can đảm trước hiểm nguy, nhất là biết đoàn kết chống ngoại xâm qua bề dài lịch sử. Dân Tầu ỷ người đông,’cả vú lấp miệng em’, nhất là trong thời gian dài đô hộ nước ta, nhưng họ luôn phải e dè và kiêng nể. Khi họ dùng chữ ‘rợ’ để gọi dân Việt, nhưng ai cũng nghĩ đây là thứ rợ ‘có văn hóa cao cấp’.

Vào thời Hồng Đức nhà Lê, khi sứ giả Tàu qua gặp vua Việt Nam, ông đã được ‘chủ’ căn dặn kỹ lưỡng “phải lấy lễ độ mà ứng xử, vì đây là một xứ có văn hiến rõ ràng”. Chung quy là qua bề dày lịch sử, dân Việt luôn biết đoàn kết khi nước có biến, khi bờ cõi bị xâm lấn. Còn khi thái bình, họ thấm đạo làm người, nên có thêm đức tính thủy chung. Tất cả bắt nguồn từ chuyện giáo dục gia đình:

Trai thì trung hiếu làm đầu,

Gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình.

Và nữa:

Con ơi muốn nên thân người

Ghi lòng tạc dạ những lời mẹ cha.

Văn hóa Việt Nam luôn chú trọng chữ hiếu: kính trọng và vâng phục ông bà cha mẹ suốt đời mình. Thành ra tác phẩm ‘Nhị thập tứ hiếu’, dù tả lại những gương sáng từ nước Tầu, luôn được đem ra để dạy dỗ đàn con lũ cháu tại mỗi gia đình Việt Nam. Chữ hiếu luôn được coi là nến móng nối kết tình nghĩa của mọi thành phần trong gia đình, để rồi gia đình xây dựng nền tảng của cộng đồng xã hội. Nó tạo nên cái sườn cho nền luân lý của cả quốc gia, dân tộc. Chữ hiếu do đó cung cấp những giá trị cao cả, ca tụng những điều căn bản thiêng liêng nhất mãi gắn bó với con người.

Từ điểm này mà chúng ta thấy trong đời sống thường ngày, chuyện dựng vợ gả chồng, chuyện cưới hỏi đã có những nề nếp và khung khổ rõ ràng. Các bạn trẻ luôn tham khảo ý kiến của cha mẹ, cũng như chia sẻ ‘chuyện tương lai’ của mình với các anh chị em, trước khi quyết định việc lập gia đình. Ai cũng biết, tại Việt Nam, xuyên qua bao thế hệ, anh chị em trong nhà được ví như ‘tay chân’. Cha mẹ già cả đau yếu thì con cái phải tận tình săn sóc thăm nom. Nếu cha chết thì anh cả sẽ ‘quyền huynh thế phụ’. Với các dịp giỗ tết, qua truyền thống khói hương, cha mẹ tuy đã qua đời mà vẫn được coi như còn sống quanh quẩn trong nhà với con cháu.


Nền văn hóa sáng ngời


Sau khi thoát ách đô hộ Tầu, dân ta vươn mình trên đường tiến bộ cùng thế giới. Chuyện chế ra chữ Nôm là một điểm son thuộc góc cạnh văn học, đã làm sửng sốt nhiều dân tộc khác. Dĩ nhiên sau khi được các giáo sĩ Công Giáo ngoại quốc, đặc biệt với cố gắng tuyệt vời của cha Đắc Lộ, dân Việt đã tiến một bước rất xa và thật dài. Dựa vào những nét văn học huy hoàng, dân Việt liên tục góp phần vào sự nghiệp chung, khởi sự với những mảng văn học bình dân ngay từ thời phôi thai. Qua kho tàng văn thơ dân dã, người Việt chứng minh cách hùng hồn là một dân rất có tâm hồn lãng mạn, giỏi về trí tưởng tượng, tài về nét khôi hài trào phúng.:

Bà già đi chợ Cầu Đông

Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng

Thày bói xem quẻ nói rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn !

Ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ còn được tăng cường với một ‘bồ’ câu đố, mà một khi có dịp được mang ra khoe với người ngoại quốc, ai ai cũng bỡ ngỡ sửng sốt. Vài ví dụ cụ thể:

-Đi nằm, đứng nằm, ngồi nằm, nằm thì ngồi (2 bàn chân)

-Ngả lưng cho thế gian nhờ,

Vừa êm vừa mát, lại ngờ bất trung (cái phản nằm)

-Bốn ông đạp đất, một ông phất cờ

Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân (trâu gặm cỏ).

Dĩ nhiên chẳng ai quên nổi biết bao truyện tiếu lâm dân gian, giúp già trẻ luôn có cơ hội để cười vui giữa cuộc sống lao động vất vả. Đâu thấy dân tộc nào có cách diễn tả nhiều hành động khác nhau, nhưng luôn có chung một từ, tỉ như từ ‘ăn’: Ăn mặc, ăn chơi, ăn thua, ăn cắp, ăn ở, ăn gian, ăn vạ, ăn chắc, ăn năn, ăn tiêu, ăn hỏi, ăn chay, ăn khớp… Quả là một thứ ngôn ngữ lạ kỳ hiếm thấy ! Kế đến là thói quen đặc biệt của dân Việt thích dùng từ ngữ kép cho đậm đà ý nghĩa: Nhà cửa, họ hàng, bóng hình, bạn bè, cao ráo, thân mật, ngọt ngào…Rồi người ngoại quốc cũng thường sửng sốt với giọng nói trầm bổng líu lo ‘như chim hót’ của dân ta, qua 5 dấu ‘sắc huyện hỏi ngã nặng’, như hệt âm nhạc Việt với hệ thống ngũ âm ‘Cung, Thương, Giốc, Chủy và Vũ’. Ngũ âm ở đây thực sự được gắn liền và dựa trên nền tảng ‘ngũ hành’, chi phối sự vận hành của cả vũ trụ cũng như thân thể con người (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ). Lại thêm một nhân sinh quan hết sức cao sâu !

Nền văn học dựa vào tiếng nói và chữ viết này luôn có tính cách hài hòa, pha trộn chung với mọi thành phần Bắc Trung Nam, cũng như tạo và nhận ảnh hưởng ở nơi các sắc dân thiểu số nữa, kể cả nhóm dân Chiêm Thành (tạo nhiều nét văn hóa độc đáo về nghệ thuật cổ điệu nghệ).

Nối tiếp nền văn học bình dân, biết bao nhiêu văn thi sĩ Việt Nam đã tiếp tục góp phần và để lại một kho tàng thơ văn quý giá. Hàng trăm tác phẩm chữ Nôm, rồi qua chữ Quốc Ngữ đã và đang tạo niềm hãnh diện chung cho dân ta. Những tên tuổi như Nguyễn đình Chiểu, Đặng trần Côn, Nguyễn Du (quá xuất sắc với truyện Kiều), Nguyễn công Trứ, Tản Đà, rồi tới các thế hệ cận đại của Nguyễn văn Vĩnh, Trương vĩnh Ký, Hàn mạc Tử, Nhất Linh, Khái Hưng, Duyên Anh, Mai Thảo…Nhất nhất họa nên những nét son đậm nét, đem văn học góp phần cho nền văn hóa dân tộc thật sáng ngời.

Dặn dò gì cho con cháu tại hải ngọai ?



Chẳng ai muốn con cháu mình mất gốc. Thành ra các bậc cha mẹ nên ráng khuyên nhủ bọn trẻ nên nhớ về cội nguồn, mà thăng tiến cho nền văn hóa ngàn năm của cha ông tổ tiên. Tất cả học tinh thần bất khuất của tiền nhân từ thời dựng nước. Nhất định không chịu cúi đầu nhục nhã trước bạo quyền. Làm mọi cách để bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập của quê hương. Cụ thể là dứt khoát duy trì bảo tồn tiếng và chữ viết Việt Nam.

Quan trọng nhất là không được phế bỏ những tinh hoa của truyền thống gia đình, làng xóm. Cứ lấy ví dụ trong miền Nam nứơc ta có tục gọi tên con cái trong nhà theo số thứ tự: Anh hai, chị ba, anh tư…Tôn tri trật tự rõ ràng. Tình nghĩa phải trung thực gắn bó. Xưng hô phải minh bạch: ông, bà bác, chú, cô cậu, anh chị…Rồi lúc nào cũng đề cao phần giáo dục cho con em. Học là ưu tiên. Các cụ dạy “sĩ, nông, công, thương” rõ ràng về bậc thang giá trị trong xã hội ! Riêng về cái kho báu trang phục ‘Áo dài’ của nữ giới vô cùng thanh lịch duyên dáng (cả thế giới đều ngưỡng mộ) thì rất cần được duy trì dài lâu vĩnh viễn.

Làm nền cho văn hóa Việt Nam là cuộc sống tinh thần, thiêng liêng (tôn giáo ở đây đã từng là cột trụ cho đời người). Nhờ tôn giáo mà dân ta luôn biết thương yêu, cảm thông, chia sẻ với tha nhân bạn bè. Lúc này, nó cũng đang giúp đàn con Việt tha hương còn biết quý mến cái khuôn khổ tâm linh, để rồi dễ dàng đồng cảm với nhau trong những buổi họp mặt cộng đồng, như Tết nguyên đán, Trung thu… Nhờ vậy, chúng ta mới có cơ hội nhắc bảo nhau không quên quê mẹ hiện mịt mờ mãi chốn xa xôi ngàn dặm bên bờ đại dương. Nó cũng giúp ai nấy thương yêu quấn quýt nhau, chung lời cầu cho dân tộc ta, trong nước cũng như hải ngoại, sớm chứng kiến cuộc tái sinh thực sự của nền văn hóa nhân bản cao đẹp thời cha ông ngày nào.

Lúc đó ta mới thật sự vui sướng hãnh diện để nhắc tới ‘bốn ngàn năm văn hiến của’ dân tộc mình.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư