Wednesday, January 31, 2018

GIÒNG GIỐNG TIÊN RỒNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Thư
28/Jan/2018

Những trang sử hào hùng

Trước hết, mời bà con đọc một đoạn giới thiệu tổ tiên dân Việt ta oai hùng như sau :

“Khoảng 2879 năm trước Tây lịch (và ta hãy cộng thêm con số 2018 của niên lịch hôm nay sẽ có được 4897 năm.) Vào cái thời đó, có một người tên là Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ, lập quốc trên vùng châu thổ sông Dương Tử, Trung Hoa, lãnh đạo giống người Lạc Việt tối cổ. Đó là tổ tiên, là cội rễ, là root của dân tộc ta hôm nay.”

Truyền thuyết cũng kể thêm chi tiết ngọn nguồn rằng Đế Minh (là cháu 3 đời vua Thần Nông) đi tuần thú phương Nam, lấy được bà Vụ Tiên (giống Tiên) sinh ra Lộc Tục, sau được cho làm vua phương Nam, tức Kinh Dương Vương (còn Đế Nghi là con trưởng thì làm vua phương Bắc). Vua Kinh Dương Vương lấy bà Long Nữ (giống Rồng) con gái chúa Động Đình Hồ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân (thế là đích thực con Rồng, cháu Tiên=theo họ mẹ và bà ngoại, vì thời đó theo chế độ mẫu hệ).

Lạc Long Quân (nhân vật đầu tiên chính thức mang danh hiệu Con Rồng Cháu Tiên) lấy bà Âu Cơ sinh ra một trăm con, 50 con theo mẹ lên rừng, 50 con xuống biển. Có sách nhắc truyền thuyết bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng, nở ra 100 con.

Nên nhớ rằng, vào thuở xa xưa đó, ở triền sông Dương Tử không phải là miền đất độc quyền của người Trung Hoa. Miền đó có nhiều bộ lạc, hàng trăm sắc dân gọi chung là Bách Việt, trong đó có dòng giống dân Lạc Việt (sắc dân của nhà Lạc long Quân) là tổ tiên ta. Từ thuở ấy, tuy có bị pha trộn, nhưng dòng Lạc Việt vẫn giữ được nét đặc thù, và tiếng Việt là biểu hiện độc đáo, để không thể bị lẫn lộn với bất cứ sắc dân nào khác.

Rồi tiếp theo, vào năm 2197 trước Tây lịch, bộ tộc Lạc Việt bắt đầu thiên cư về phía Nam, để tránh bị đồng hóa. Họ kéo nhau xuống vùng Quảng Đông và Quảng Tây và ráng an cư lạc nghiệp (dường như cũng rủ thêm một số thuộc bộ tộc Âu Việt đi theo) với tất cả sự can đảm và nhẫn nại. Phần còn lại của khối Bách Việt đã hầu như định cư tại chỗ, và hòa lẫn với các sắc dân tạo ra người Trung Hoa ngày nay (được coi là người Hán). Ôi, những vị tổ tiên anh hùng của chúng ta, đóng khố nhai trầu, răng nhuộm đen, mình xâm Rồng, líu lo nói tiếng nước ta (vốn có văn tự độc đáo và riêng biệt, khác ngôn ngữ người Hán) từ ngàn năm trước.

Khi dân Trung Hoa bành trướng, bộ tộc Lạc Việt lại phải thêm một lần thiên cư vào năm 1401 trước Tây lịch. Lần này bộ tộc Lạc Việt tiến đến miền châu thổ sông Hồng, lập nên nước Văn Lang và bắt đầu 18 đời vua Hùng Vương dựng nước.

Theo truyền thuyết, vua Hùng thứ nhất chia nước ra làm 15 bộ, gồm có dân tộc Lạc Việt là chính, đóng đô ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên), tướng Văn là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng, con trai là Quan Lang, con gái là Mị Nương, các quan nhỏ là Bồ Chính. Quyền chính trị cha truyền con nối gọi là phụ đạo.

Vua Hùng truyền đến đời Hùng Vương thứ 18 thì bị Thục Phán đánh bại. Thục Phán lên làm vua xưng là An Dương Vương vào năm 257 trước TL), đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê ( nay là tỉnh Phúc An), và xây thành Cổ Loa.

Tiếp là Triệu Đà nổi lên cai trị vào năm 207 trước TL, đặt tên nước là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung. (sau phải đầu hàng khi Hán tộc tràn xuống xâm lăng).

Tổ tiên chúng ta lập quốc và giữ nền độc lập ở miền lưu vực con sông Hồng phù sa đất đỏ, con sông Đáy lạnh đôi bờ, những nhánh sông Gầm, sông Chảy…được một thời gian khá dài, thì người Trung Hoa lại bành trướng xuống phía Nam. Tàu lúc đó đã là nước lớn, người đông, nên lấy bạo lực cai trị nước ta hơn 1000 năm. Đó chính thức là thời gian Bắc Thuộc, từ 111 trước Tây lịch đến năm 936 sau Tây lịch.

Suốt thời gian dài thăm thẳm đó, dân Việt đã liên tiếp nổi dậy chống Bắc thuộc. Các cuộc nổi dậy lừng danh lịch sử của Hai Bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng v.v… tuy yếu thế, nhưng đã giữ được ngọn lửa Việt bất khuất không hề tàn lụi, và dân Việt không hề bị đồng hóa. Ngôn ngữ Việt Nam tuyệt vời vẫn còn được lưu truyền từng thế hệ và từng thế hệ. Những ông cha của chúng ta cần cù, gàn bướng đã âm thầm chống lại công cuộc đồng hóa của người Tàu, năm này qua tháng khác, gậm nhấm hàng trăm thế hệ cha truyền con nối, để cho ta vẫn là ta hôm nay.

Đến năm 939 sau Tây lịch, có một người Việt anh hùng tên là Ngô Quyền đã thành công trong việc chống Bắc phương, dựng nên một thời đại tự chủ từ cho đến năm 1855 bị Pháp chiếm. Suốt 916 năm của thời đại tự chủ này, ông cha chúng ta liên tiếp ‘đưa lưng ra biển’ mà chống ngăn giặc Bắc phương, qua các triều đại kế tiếp, lần lượt từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, nhà Nguyễn Tây Sơn, tới Nguyễn Gia Long.

Nối tiếp chuyện giữ nước kiên cường


Chúng ta cùng nhắc lại một lần tên những anh hùng tiền bối :Họ Đinh bắt đầu với Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận, dẹp loạn sứ quân và thống nhất sơn hà. Lê là họ của Lê Đại Hành, nhà Tiền Lê, ngưòi anh hùng phá Tống, bình Chiêm. Lý là thời đại của Lý Công Uẩn. Họ Trần anh hùng là thời của đức Trần Hưng Đạo, vị danh tướng mấy lần đánh tan quân Mông Cổ. Hồ là họ của nhà cách mạng dân sinh Hồ Quý Ly. Hậu Lê là thời đại Lê Lợi mười năm kháng chiến, lấy áo vải dựng ngọn cờ đào. Nguyễn ‘trước’ là họ của Nguyễn Huệ, Quang Trung, vị anh hùng dân tộc lừng danh lịch sử. Nguyễn ‘sau’ là họ Nguyễn Ánh (Gia Long), người đầu tiên thống nhất Nam Bắc kể từ khi Trịnh Nguyễn phân tranh.

Xin nhắc thêm : sau khi giữ vững giang sơn hết bị phương Bắc xâm lăng, cha ông chúng ta đã lợi dụng hoàn cảnh thuận tiện, qua các cuộc chinh chiến với dân Chiêm Thành và công cuộc ngoại giao với người Chân Lạp, trong gần 7 thế kỷ liên tục, đã khởi sự cuộc ‘Nam Tiến’ hào hùng, và đã tô đậm trang sử mới cho đất nước Việt : Tổ tiên chúng ta đã đi thêm chặng đường dài hướng về miền Nam, và hình thành giải giang sơn chữ S ngày nay.

Vị vua cuối cùng nhà Nguyễn còn độc lập là Tự Đức đã chịu để thực dân Pháp đến đô hộ vào năm 1855. Các sử gia nhận định rằng sau 18 năm cai trị của vua Gia Long, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã nghe lời các quan quá thủ cựu, ra lệnh bế quan tỏa cảng, không chịu tìm hiểu nền văn minh tân tiến của các nước Tây phương (nhất là phong trào tìm thuộc địa đang lên cao thời đó), nhất là lại thiển cận ra chỉ thị bách hại đạo Thiên Chúa, thành ra đưa đến hệ lụy tai hại khôn lường cho đất nước mình.

Sau thế chiến 2, nhiều đảng phái Việt Nam nổi dậy chống Pháp, nhưng cuối cùng đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền, rồi rút vào bưng khi Pháp trở lại, và cũng từ đó hoàn cảnh xô đẩy tiến đến thời kỳ phân chia Nam Bắc 1954, rồi cuộc chiến đau thương cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì miền Bắc chiếm miền Nam. Thế là hàng triệu người đã tìm mọi cách bỏ nước ra đi.


Liên tục thay đổi quốc hiệu

Bắt đầu chúng ta có nước tên là XÍCH QUỶ (Kinh dương Vương)

Kế đến là nước VĂN LANG (Hùng Vương I)

Rồi tới quốc hiệu là ÂU LẠC (Thục Phán)

Tiến tới nước mang tên NAM VIỆT (Triệu Đà)

Rồi có tên nước là VẠN XUÂN (Lý nam Đế)

Kế là tên nước ĐẠI CỒ VIỆT (Đinh tiên Hoàng)

Lại có tên mới là ĐẠI VIỆT (Lý thánh Tông)

Sau lại có tên là nước ĐẠI NGU (nước an bình) (Hồ quý Ly)

(Gốc Hán tự : Ngu như Nghiêu =vua Nghiêu Thuấn xưa)

Sau 7 năm, lấy lại tên ĐẠI VIỆT (Lê Lợi)

Sau cuối là tên nước VIỆT NAM (Gia Long)

Chữ NAM hiện nay là do vua nhà Thanh bên Tầu đã đòi vua Gia Long dùng đi kèm sau chữ VIỆT, với dụng ý bảo đất nước chúng ta chỉ là ‘phần phương Nam’ của Tầu, đang được nhóm dân Việt sinh sống (thời đó nước ta vẫn phải phục lệnh và triều cống vua Tầu hàng năm, nên dù vua đã xin đặt tên nước là Nam Việt cũng không được). Nên nhớ rằng Hán ngữ đặt chữ quan trọng phía SAU, chữ trước chỉ có giá trị như một tĩnh từ, bổ xung nghĩa cho chữ sau (giống như chữ Sơn Cước : Chân của Núi).

***Vào dịp khác chúng ta bàn về công cuộc nam tiến của dân Việt, một kế hoạch khôn ngoan và chính danh của cha ông chúng ta. Lịch sử luôn biến thay với thời gian. Định mệnh như luôn được dành để cho từng cá nhân, cộng đoàn và quốc gia trên thế giới.

Wednesday, January 3, 2018

BƯỚC VÀO NĂM MỚI DƯƠNG LỊCH



Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Đếm mốc Thời Gian
Đời người thường được quan niệm là quá vắn vỏi : “Trăm năm thì ngắn, một ngày dài ghê”! Và nhà thơ Cao bá Quát đã một lần than thở :”Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy đã nực cười”. Nhà Phật mang thuyết ‘vô thường ‘ ra để nhắc bảo ta rằng đời sống chỉ là ‘sắc sắc không không’. Còn kinh thánh bên Công Giáo thì dạy rằng Chúa là chủ tể của thời gian : Ngài muốn chúng ta làm quản lý cho khéo ngày tháng đang sống, và cũng nhắc thời giờ trên trần rất giới hạn; trong khi một ngàn năm trước mặt Chúa chỉ như một khoảnh khắc.

Mở lại lịch sử nhân loại, dựa vào thời tiết đổi thay, người ta đã biết chia ra các mùa, theo vòng tròn 365 ngày, kể là một năm. Rồi phân một năm ra 12 tháng. Bắt đầu từ thời La Mã cổ, với triều đại Pompilius vào khoảng 700 năm trước tây lịch. Sau đó hoàng đế Caesar sửa lại cho được rõ ràng chi tiết hơn.

Lịch mới này được dựa vào sự phát minh của nhà Thiên Văn Học người Hy Lạp Alexandria (tính hệ thống thời gian cho Lịch theo mặt trời). Caesar muốn thay đổi ngày đầu năm từ mồng 1 tháng Giêng, mà ông cho là hợp lý nhất, sẽ phù hợp với một trong những điểm chí (Solstices) hay điểm phân (Equinoxes) cũng như tiết khí trọn cả năm.

Cuối cùng vị Giáo hoàng nổi danh Gregorius lại sửa thêm cho thật chính xác vào năm 1582, và ngày nay thế giới vẫn xử dụng lịch này. Trong bản sửa đổi của lịch Gregorian đã hủy bỏ 10 ngày trong tháng 10 năm 1582. Ngày thứ năm là ngày 04 tháng 10 năm đó, và tiếp theo liền là ngày thứ sáu 15/10.

Ai cũng biết rằng năm dương lịch được tính bằng đơn vị thời gian trái đất quay một vòng quanh mặt trời. Một vòng quay này kéo dài 365,2422 ngày (356 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây). Để tiện sổ sách, người ta tính chẵn 365 ngày là một năm dương lịch.

Vì trong 365 ngày có 12 lần mặt trăng tròn và 12 lần khuyết nên người ta chia thành 12 tháng. Mà cũng vì 365 không chia chẵn hết cho 12 nên đành phải chia thành tháng đủ (31 ngày) và tháng thiếu (30 ngày). Riêng tháng 2 cũng là tháng thiếu nhưng chỉ có 28 ngày. Như vậy cộng 12 tháng vừa đủ 365 ngày, đó là năm bình thường. Nhưng còn dư 5 giờ 48 phút 46 giây thì tính sao đây? Trong 4 năm liền, số dư đó cộng lại suýt soát một ngày, và một ngày đó được cộng vào tháng 2 của năm thứ tư. Năm thứ tư ấy gọi là “năm nhuận”, có 366 ngày. Tháng 2 của năm nhuận có 29 ngày, ngày thứ 29 ấy gọi là “ngày nhuận”.

Dĩ nhiên có một số vùng hay quốc gia vẫn muốn dùng lịch riêng, có thể là theo tính toán tôn giáo, thần linh dân tộc, hoặc theo âm lịch với việc vận hành của mặt trăng như tại Trung Hoa, Việt Nam…

Khắp nơi mừng năm mới

Người ta khoái mừng năm mới từ tối hôm trước : 31 tháng 12, gọi là giao thừa. Tại Hoa Kỳ, giao thừa được tổ chức với những bữa tiệc chính thức, những hoạt động hướng về gia đình và các sự kiện đại chúng khác. Một trong những lễ hội nổi tiếng nhất tại đất nước này là "thả cầu" tổ chức tại ‘Quảng trường’ Thời Đại của thành phố New York : người ta lấy cảm hứng từ những quả bóng thời gian được sử dụng chính thức làm tín hiệu thời gian, vào lúc 23:59 theo múi giờ miền Đông, một quả bóng nặng 11.875 pound (5.386 kg), có đường kính 12 foot (3,7 m) của Waterford crystal nằm trên nóc tòa nhà được hạ xuống một điểm cực cao 70 feet, bay đến nóc của quảng trường trong 60 giây để báo hiệu năm mới bắt đầu. Bà con tụ họp vỗ tay và chúc nhau năm mới may lành, trong tiếng nhạc vui vang rền.

Do ảnh hưởng văn hoá phương Tây, nên người Nhật từ lâu đã không đón tết theo thời gian âm lịch như một số nước châu Á khác. Trong tâm linh người Nhật đã coi tết dương lịch là ngày lễ tết chính. Trong buổi sáng tinh mơ ngày đầu năm, mọi thành viên trong các gia đình người Nhật cùng nhau đổ ra đường để chào đón bình minh đầu tiên của năm mới. Sau đó, mọi người rủ nhau lên chùa để bái Phật, cầu nguyện hoặc đến nhà người thân, bạn bè để chúc tết nhau. Trong ngày này, các gia đình đều làm lễ đón mừng năm mới (Oshogatsu). Trên mâm cỗ của người Nhật, các món ăn vô cùng phong phú được bày trí tỉ mỉ, đẹp mắt.

Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là "ý định cương quyết" thật: "Năm nay, tôi cương quyết sẽ... bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp, bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn...''

Tinh thần của những "nghị quyết" này là mượn dịp năm mới để sống lại, để làm lại từ đầu, là không phó mặc cho số phận, mà nhất quyết làm chủ đời mình. (Làm được hay không lại là chuyện khác !) Bạn nghĩ sao ?

Vui mùa xuân mới. Ăn mừng tân niên. Nhưng bà con mình vẫn cảm thấy mình già đi một chút, dù không muốn chấp nhận. Thêm tuổi là đuổi xuân đi.

Giáo Hội Công Giáo và năm mới

Giáo hội mời chúng ta bước vào tân niên với tâm tình mến yêu tin tưởng nơi Đức Trinh Nữ Maria. Mồng một tháng giêng là lễ kính ‘Mẹ Thiên Chúa’, đúng một tuần sau khi kỷ niệm ngày Mẹ sinh ra Đức Giê-su, là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần. Nghĩa là Mẹ được Chúa tuyển chọn để dóng vai trò lớn lao trong lịch sử Cứu Độ.

Đức Mẹ được nâng lên chỉ vì Ngài đã hạ mình và sống khiêm tốn vô song. Địa vị cao sang của Mẹ cũng là lý do mời tất cả chạy đến xin được chở che hộ phù. Mà cái cao quý ở đây là Mẹ cũng là mẹ của tất cả chúng ta. Chạy đến để học những nhân đức cao cả. Cũng là để lắng nghe những lời Mẹ dạy bảo để sống đẹp lòng Chúa. Cũng là dịp để xin Mẹ giúp chúng ta đổi mới cuộc sống, và giúp toàn thể nhân loại hư đốn biết thay dạ đổi lòng, mà sống theo tinh thần Phúc Âm.

Ngày đầu năm cũng là ngày Giáo hội kêu gọi mọi người cầu nguyện cho nền Hòa Bình toàn nhân loại. Cho ai nấy sống tình thân ái, bới ích kỷ, thêm cảm thông và chia sẻ chân thành.

Lời cầu cho hòa bình phải kèm theo ước vọng và cương quyết thực hành công bằng, từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội. Chúng ta là những phần tử của Giáo Hội, ai nấy phải là những chứng tá thực sự của Hòa Bình. Phải ráng kiến tạo Hòa Bình từ trong gia đình, thôn xóm, cộng đồng...Ráng gây dựng và gìn giữ sự thật, công bằng, tình thương, là những yếu tố nòng cốt.

Thành ra, vui tân niên, chúng ta phải đồng hành với Giáo hội. Hướng đi cao đẹp này sẽ kéo ơn phúc từ trời cao cho cả năm mới. Hãy tận hưởng từng phút giây của ngày sống, trong tâm tình tạ ơn sâu thẳm. Không mơ tưởng về một loại ‘thuốc trường sinh’ nào đó trên đời. Mà một niềm chỉ mong ngày được về với Chúa trên nước hằng sống. Nhạc sĩ Y Vân nghẹn ngào sáng tác và ca lên bản hát ’60 năm cuộc đời’. Có là bao ? Ngắn ngủi quá ! Điều quan trọng nhất là sống cho đáng sống, kiên trì lập công, vượt qua mọi trái ý thử thách. Nhà thật của chúng ta không ở trần gian này.

Chớ ham mê của đời chóng qua. Nhưng năng cầu nguyện “Xin Chúa trở thành gia nghiệp cho đời con”.

Trong tinh thần đó, tất cả chúng ta có thể cùng chân thành và vui vẻ chúc nhau “ HAPPY NEW YEAR “.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư