Saturday, December 29, 2018

SẤM TRẠNG TRÌNH - NHÀ TIÊN TRI HÀNG ĐẦU NƯỚC VIỆT

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư


Bà con mình rất ưa tò mò về chuyện tương lai. Thành ra ai cũng thích nghe về ‘Sấm Trạng Trình’. Người ta gọi ngài là nhà đại tiên tri, coi bói hậu lai như thần.

Tên gốc là Nguyễn bỉnh Khiêm. Tên húy là Nguyễn văn Đạt. Tên tự là Hanh Phủ. Tên hiệu là Bạch Vân Am cư sĩ. Các môn sinh tôn ngài là Tuyết Giang phu tử. Từ thế kỷ 16, tiếng tăm ngài đã vang dội khắp chốn. Đã tiên đoán tương lai giỏi, lại có tài thơ văn, kèm theo lối sống đạo hạnh khác thường. Năm 1535 đậu trạng nguyên, ra làm quan, được phong tước ‘Trình tuyền hầu’ rồi ‘Trình quốc công’. Thiên hạ gọi ngài gọn ghẽ với tên TRẠNG TRÌNH.

Dĩ nhiên ngài nổi tiếng về những bài SẤM, cho nên huyền thoại Sấm Trạng Trình đã đi vào lịch sử dân gian dân ta. Bà con mình còn tôn kính ngài, bên cạnh vĩ nhân Nguyễn Trãi, là ‘cây đại thụ văn hóa dân tộc’ (qua nhiều tác phẩm dồi dào phong phú, được lưu truyền rộng rãi khắp nơi). Ngài cũng được yêu mến như một nhân sĩ chủ trương ‘nhân đạo chủ nghĩa’ cho mọi người. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt sâu rộng và dài lâu.

Nhân tài chỗ nào ?



Có nhân sĩ đã nhận xét : “Trạng Trình là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước.

Thật ra, bà con mình hay nhắc tới những biến cố lớn : ví dụ ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.

Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán – Nôm còn giữ được bốn bản. Ví dụ có truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:

“Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn (Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta).

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn .

Chuyện thời sự hôm nay :



Bây giờ người Việt chúng ta thử bàn chuyện thời đại đang ‘nóng’với vụ ‘Biển Đông’ nhé :

Trạng Trình đã ghi rõ "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Chí những phù nguy xin gắng sức/Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình".

Với con mắt chiến lược, nhìn thấy đại cục thiên hạ ngàn năm, Trạng Trình đã khuyên thế hệ sau phải nắm giữ được Biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời.

Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc, càng thấy rất rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ lắng đọng trong đó một tư tưởng chiến lược, một dự báo thiên tài: "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Vạn lý Đông minh quy bả ác/ức niên Nam cực điện long bình".

Trải qua không ít thực tế, chúng ta càng thấy những câu thơ sấm truyền của cụ Trạng mang tính thời sự thức thời đối với người Việt. Hai câu thơ mang tính dự báo chiến lược của cụ Trạng càng khiến lay động từ sâu thẳm ý chí của người Việt về cái tâm thức bám biển, giữ biển của mình. Tự ngàn xưa, người Việt đã là những cư dân sông nước, cư dân của văn hóa biển đảo.

Với kho sấm truyền của cụ Trạng còn ứng đúng với những cục diện trên thế giới, tỉ như đại chiến thế giới lần thứ II. Đại chiến này khởi đầu khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, từ năm 1940 đã bắt đầu rục rịch (cuối năm Thìn - Long vĩ) khởi đầu chiến tranh, đến năm 1941 (đầu năm Tỵ - Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô (cũ). Qua cuối năm 1942, giữa năm 1943 (Mã đề dương cước) thì đến năm 1944 - 1945 (Thân Dậu niên lai kiến thái bình) mới qua khỏi nạn chiến tranh.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thể giải mã hết những bí ẩn của điều gọi là "Sấm Trạng Trình". Thực tế, cho đến nay vẫn cần sự quan tâm của các nhà khoa học để giải đáp. Cuối cùng, những lời sấm của nhà tiên tri số 1 Việt Nam cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề ông đã viết: "Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi", mọi ý nghĩa ‘sâu xa hơn’ vẫn là một câu hỏi lớn.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, December 2, 2018

KHO TÀNG VĂN HỌC QUÊ TA

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Một kho tàng vô giá.



Bà con mình ai cũng biết : tiếng nói và chữ viết của dân tộc ta rất là độc đáo, chẳng giống với dân nào trên thế giới cả. Đã mấy ngàn năm nay, ai ai cũng hãnh diện, bắt đầu với loại văn chương bình dân (đại chúng) rồi tới văn chương ‘bác học’ tân tiến. Ngay cả trong các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, người ta vẫn nhắc tới câu nói chí lý của nhân sĩ Phạm Quỳnh ngày nào :”Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn; mà tiếng Việt còn thì nước ta còn”. Cụ Quỳnh ca tụng truyện Kiều của Nguyện Du như một đệ nhất danh phẩm văn chương của quê hương mình, rồi nhân đó kêu gọi gìn giữ văn học Việt để không…mất nước.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng”


Cảm động quá, phải không bà con ? Chỉ 2 câu lục bát này đủ để nhắc chúng ta yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Dù hoàn cảnh đất nước có thế nào đi nữa.

“Bây giờ mận mới hỏi đào :

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?


Mận hỏi thì đào xin thưa :

Lối thì có lối, nhưng chưa ai vào”


Có dân tộc nào mà tạo cách tỏ tình ý nhị sâu sắc của đôi trai gái như ở quê hương mình không ? Thật khó tìm ra lắm !

“Da trắng vỗ bì bạch,

Trời xanh màu thiên thanh”


Nữ sĩ Đoàn thị Điểm ra câu đố, rồi Trạng Quỳnh đáp ngay lại, khiến thiên hạ sững sờ. Chỉ có dân Việt mới hiểu, chứ chả có người nước ngoại quốc nào thấm được cái hay của câu đối Việt Nam, chứ đừng nói tới chuyện phiên dịch ra ngoại ngữ !

Một bề dày lịch sử.



Hình ảnh thày đồ và học trò ngày xưa vẫn làm ai nấy thích thú không ít. Bắt đầu với thời dân ta chịu người Tàu đô hộ một ngàn năm, họ ép mình học chữ Hán, và rồi chữ này mang tới bao khởi đầu cho văn học quê nhà. Từ tích truyện cho tới các hình thức thơ văn, cái gì cũng mượn Tàu. Ta chỉ biết 2 lối thơ là ngũ ngôn và thất ngôn. Qua thời nhà Đường mới phát triển lối thơ tứ tuyệt và bát cú. Về sau, các nhân tài của ta dựa văn học Tàu chế thêm các loại, như thủ vĩ ngâm, liên hoàn, thuận nghịch độc, yết hậu, lục ngôn, tiệt hạ, vĩ tám thanh, song điệp, họa vận và liên ngâm…

Quan trọng nhất là về sau, người Việt chế thêm những loại văn thơ vô cùng hay ho quý giá, như thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói, hát bội và ca Huế (riêng tác phẩm ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là điển hình tuyệt hảo của thể thơ song thất lục bát).

Nét độc đáo của văn học ta còn thể hiện qua các câu đối, các bài phú, bài văn tế (được gọi chung là loại văn đối hay biền văn).

Dĩ nhiên kho tàng văn chương được thể hiện mạnh mẽ qua thể văn xuôi, kể cả thời gian chữ Nôm khởi đầu với danh nhân Hàn Thuyền đời Trần, để rồi xuất hiện những tác phẩm hay ho như ‘Trinh thử’, ‘Cung Oán ngâm khúc’ và nhất là ‘Kim vân Kiều’ của Nguyễn Du. Và ta cũng cần ghi nhớ công ơn bao tác giả vô danh ( tỉ như kẻ viết truyện ‘Bích Câu kỳ ngộ’ hay’Nhị độ mai…) từng góp phần không phải nhỏ.

Nhưng cái đà đẩy mạnh việc sáng tác vẫn là cơ hội ‘ngàn năm một thuở’ khi chúng ta được hưởng món quà vô cùng đặc biệt của các nhà truyền giáo Âu châu, nhất là cha Đắc Lộ, đó là chữ Quốc Ngữ.

Vào thời cận đại, dĩ nhiên với chữ Quốc ngữ, dễ gì ai quên được những tên tuổi lẫy lừng tiếp tay đẩy mạnh nền văn học quê ta : Nào là Nguyễn văn Vĩnh, Petrus Ký, Phạm Quỳnh, Phan kế Bính. Đáng kể nữa là nhóm ‘Tự lực văn đoàn’ lừng danh với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo…Còn về thơ thì những tên tuổi lớn như Thế Lữ (Hổ nhớ rừng), Tản Đà (Khối tình con), Cao bá Quát (Uống rượu tiêu sầu), Nguyễn Khuyến (Ông tiến sĩ giấy), Tú Xương (Tự thán), Hàn mạc Tử (Đà Lạt trăng mờ)…

Vào thời chia đôi đất nước năm 1954, tại miền Nam, bà con thấy bao nhà văn nổi tiếng góp phần to lớn cho văn học : Nhã Ca, Duyên Anh, Hoàng hải Thủy, Mai Thảo, Chu Tử, Nguyễn thị Hoàng, Võ Phiến, Lệ Hằng…

Nói gì thì nói, qua bao thế hệ, riêng nền ‘Văn Chương bình dân’ đã, đang và sẽ là những cột trụ xây nền văn học quê ta. Từ những câu tục ngữ, ngạn ngữ, phương ngôn, cho tới kho tàng ca dao bát ngát giá trị :

“Thương nhau tam tứ núi cũng trèo,

Thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua”


Kế tới là biết bao nhiêu truyện cổ tích đầy ý nghĩa lịch sử giáo dục và giải trí. Nào ‘Sơn Tinh Thủy Tinh’, nào ’Trương Chi Mỵ Nương’, nào ‘sự tích trầu cau’, nào ‘Chử dồng tử’…nhất nhất gợi lại cho hậu thế những tâm tình thật tha thiết với đất nước.

Nền văn học bình dân luôn có tính cách tự nhiên, sâu sắc, giản dị, uyển chuyển và thanh thoát. Nó dựng nên một giá trị trường tồn cao đẹp, tạo sự trưởng thành cho tiếng mẹ đẻ, khó ai quên được trong đời. Khi nói về văn chương ‘bác học’, người ta phải ghi ơn văn học bình dân đã tạo nền móng từ trước. Sự ‘vay mượn’ này đã vô hình chung dựng xây một vườn hoa văn chương quê nhà thật xinh đẹp thơm tho đầy hương sắc.

Gìn vàng giữ ngọc



(Văn miếu Quốc tử giám : đại học tiên khởi Việt Nam)

Văn học là một góc quan trọng của văn hóa nơi dân tộc Việt Nam. Có ai muốn gìn giữ truyền thống văn hóa quê hương mà quên lãng nền văn học được không ? Bỏ qua những thứ tiêu cực trong nước hiện nay, chúng ta đang vui vì tại hải ngoại có những trung tâm dạy Việt ngữ, kèm theo những thư viện ‘bỏ túi’ lưu trữ sách tiếng nước mình, đủ loại cũ mới. Dĩ nhiên trên mạng lưới toàn cầu cũng thấy đó đây những cố gắng giới thiệu các loại sách vở văn thơ cũ mới của văn chương nước nhà. Bà con cứ thử trang nhà http://vietmessenger.com/books/?author=list sẽ thấy vui lắm. Còn đối với các vị cao niên luôn luôn say mê sách cổ Việt Nam ư ? Chúng ta nên bảo nhau cứ tự nhiên mở http://ndclnh-mytho-usa.org/KhoChuaSachCu.htm . Sướng lắm. Còn nếu khoái đọc tiểu thuyết cũ ? hãy tìm tới trang nhà http://vietmessenger.com/books/ . Kho sách khổng lồ đáng giới thiệu nhất cho cộng đồng thì chúng ta phải kể tới trang http://ndclnh-mytho-usa.org/Kho_Audiobook.htm .

Tại một số nhà sách lớn hải ngoại, bà con cũng rất sung sướng được thấy những tác phẩm mới ra mắt độc giả, ví dụ tập ‘Tác giả Việt Nam’ xuất bản tại Montreal, Canada, giới thiệu hàng trăm người cầm bút ngày qua. Còn nói về những nhà văn hiện nay muốn nối tiếp con đường của các bậc tiền bối, bà con cũng dễ dàng đọc tên họ, như Tưởng năng Tiến với ‘Đường phía bắc’, Huy Yên với ‘Chùm dâu ngọt ngào’, Trạch An và Trần hữu Hội với ‘Bóng xưa’, Mạc phương Đình với ‘Nợ nhau’, Cao thoại Châu với ’24 giờ bất trắc’, Phan thanh Cương với ‘Về trường xưa’…Và còn nhiều nhiều vị khác từ khắp nơi tại hải ngoại, tiếp tục gìn giữ và phát triển nền văn học nước nhà.

Muốn góp phần để ‘gìn vàng giữ ngọc’ ư ? Quý phụ huynh ráng chỉ dạy con em biết mến thương quê hương và dân tộc Việt Nam, nhất là chịu khó học ‘tiếng nước ta’ cho thật thông thạo. Người Tàu, người Do Thái đó, họ bảo nhau chớ đi vào con đường mất gốc. Dù sống ở phương trời nào, giòng máu Lạc Hồng vẫn lưu chuyển trong tim chúng ta.

Mong thay !

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Saturday, October 20, 2018

BÁC SĨ YERSIN, NGƯỜI BẠN VÀ ÂN NHÂN CỦA DÂN VIỆT

Con người và sự nghiệp



Dân Việt chúng ta khá quen với tên tuổi của 2 danh nhân thuộc y giới người Pháp: Bác sĩ ‘vi sinh học’ Louis Pasteur và bác sĩ ‘vi khuẩn học’ Alexandre Yersin. Ta nghe biết nhiều về cụ Pasteur, sinh năm 1822, qua các ’viện Pateur’ với chuyện tiêm chủng chống bệnh đậu mùa. Còn cụ Yersin thì sinh vào năm 1863 (cha mẹ gốc Pháp, di cư qua Thụy Sĩ và sinh ông tại đây). Nhưng vị bác sĩ sau này đã về học và nhập tịch Pháp) rồi quyết định qua sống tại Việt Nam, và trở thành vị ân nhân sáng giá và gần gũi với dân tộc ta rất nhiều. Từ quê nhà, ông đã vang danh khi cùng một bác sĩ bạn khám ra độc tố ‘bạch hầu’, rồi sau khi qua Đông Dương, khám phá ra vi khuẩn bệnh dịch hạch.

Vì muốn phục vụ dân nghèo cũng như tìm chỗ thuận tiện cho việc nghiên cứu khoa học, ông quyết định chọn địa danh Nha Trang làm quê hương thứ hai, để rồi tìm cách xây dựng tại đây một ‘viện Pasteur’ đầu tiên. Trước hết, ông dựng một nhà gỗ đơn sơ tại ‘Xóm Cồn’ để chữa bệnh cho dân nghèo. Đồng thời ông cũng say mê khám phá thám du các vùng rừng núi gần xa. Chuyến đi đầu tiên khá nguy hiểm nhưng thành công mỹ mãn, trải rộng tới phía tây nước Việt, đụng tới sông Mekong bên xứ Miên và Thái. Thế là chính quyền Pháp bắt đầu biết và rất hãnh diện về ông.

Tháng 6 năm 1893, được sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Đồng Nai lên Di Linh, cuối cùng khám phá Cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D'Lat nằm rải rác trong vùng, và "Từ trong rừng thông bước ra, tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu, giống như mặt biển, tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này." [Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho thiết lập một khu nghỉ dưỡng cho người Âu châu, sau trở thành Đà Lạt].

Chẳng may, trên đường trờ về Nha Trang, ông bị một nhóm cướp tấn công, khiến ông bị thương nơi ngực và chân. Nhưng lại rất may, biết các kỹ thuật y khoa, ông sống sót, để rồi vẫn ráng tổ chức thêm cuộc thám hiểm kế tiếp.

Cuối năm đó, với một lực lượng hùng hậu - ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng theo hộ tống - Yersin khởi hành cũng từ Đồng Nai, lên Đà Lạt, rồi đi tiếp đến cao nguyên Đắk Lắk, vào Attopeu ở nam Lào, rồi lại theo hướng đông ra biển, để đến Đà Nẵng vào ngày 17 tháng 5 năm 1894. Cuộc khảo sát lần này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc.

Trang nhật ký Yersin ghi, "Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế làm cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét, mặc dầu đã uống thuốc ngừa...”

Nghiên cứu bệnh dịch hạch



Tượng Yersin tại Bảo tàng việnY khoa Hồng Kông
Trong khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm nữa thì bệnh dịch hạch đã bộc phát ở miền Nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương, gây tử vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Hoa (Việt Nam lây dịch bắt đầu với cảng Hải Phòng). Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp bèn cử Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch.

Yersin là người đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn dịch hạch hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, nhờ đó ông đã giải thích được phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, trong bài báo nhan đề La Peste Bubonique de Hong-Kong (Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông).

Năm 1895 ông trở lại Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh. Năm 1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.

Năm 1896, Yersin đến Quảng Châu, được phép công khai tiêm huyết thanh (điều chế tại Nha Trang) cho một bệnh nhân tại đây, và nghiễm nhiên trở thành người thầy thuốc đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch. Yersin tiếp tục cuộc hành trình chống bệnh dịch hạch (bằng huyết thanh) với những điểm đến kế tiếp tại nhiều thành phố khác.

Ân nhân về nhiều ngành chuyên môn:



Viện Pasteur Nha Trang
Sau ít thời gian làm việc ở Bombay (Ấn Độ), Yersin quyết định trở về Nha Trang trong năm 1898. Với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer, ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Rồi ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nơi nghiên cứu nông nghiệp và chăn nuôi. Ông cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học (với một trạm xá y tế phục vụ cư dân nghèo trong vùng). Trong thời gian này, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò tự nhiên trở thành nguồn thu nhập chính của Yersin, giúp ông có sức mở rộng việc nghiên cứu. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.

Là người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở thành chủ một đồn điền cao su lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền đủ để nuôi sống Viện của ông. Ông còn ra công nghiên thêm về các loại chim, nghề làm vườn, và sưu tầm các loại hoa. Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng, đồng thời khuyên dân làng bỏ tập tục chặt đốt cây rừng. Ông còn trồng thử nghiệm cây ‘canh-ki-na’ để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét. Ông cũng tìm ra đất thích hợp cho loại cây này ở vùng đất Dran và Di Linh.

Yersin thích biết mọi thứ, ông là chuyên gia về nông học nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, rồi nghiên cứu khí tượng. Ông mua máy điện lượng kế, làm một con diều thật lớn thả lên độ cao một ngàn mét để đo điện khí quyển và dự đoán giông bão. Ông muốn giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển mỗi lúc có lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục vụ trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn và máy quan tinh được lắp đặt trên sân thượng, để cùng nhau nghiên cứu khí tượng. Trong những ngày cuối đời, Yersin gắn bó với niềm đam mê mới: văn chương. Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch những tác phẩm của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron, Platon, và Démosthène.

Trường Y Đông Dương



Trường Y Đông Dương
Năm 1902 Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường Y, một bệnh viện, và một trung tâm vệ sinh. Chỉ với Trường Y "ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi franc!" Một số tiền lớn, song theo nhận xét của Yersin, vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích hơn nhiều so với cái nhà hát ở Sài Gòn.

Yersin được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên củaTrường Y Đông Dương này (là tiền thân của Đại học Y Hà Nội). Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp – sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết – đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.

Trường khai giảng ngày 1 tháng 3 năm 1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, 15 người đến từ Bắc Kỳ, 5 từ Trung Kỳ, 8 từ Nam Kỳ, và 1 từ Cao Miên. Tất cả đều được nhận học bổng 8 đồng mỗi tháng. Ghi nhận của Yersin về những sinh viên Y khoa đầu tiên được đào tạo ở Đông Dương, "Họ rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với những sinh viên giỏi nhất bên Pháp. Điều thú vị là ngay cả những người thông minh cũng học rất chăm. Gần như có thể nói rằng không có ai lười biếng."

Ông có công di chuyển trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc.

Sau hai năm, khi mọi thứ đã vào guồng, Yersin xin từ nhiệm, và trở về Nha Trang.

Vĩ nhân từ trần



Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, thọ 80 tuổi, ông để lại di chúc, "Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn." Dù vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhiều người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn người đưa tang dài đến hơn ba cây số. Dân chúng coi ông là ‘công dân’ Nha Trang, vì ông đã sống ở đây tròn 50 năm.

Di sản của ông quá lớn. Toàn dân Việt Nam, hơn mọi dân tộc khác, phải ghi ơn ông mãi mãi. Vua Bảo Đại đã truy tặng ông bội tinh kim khánh. Dân nghèo nhớ ông vì lòng nhân hậu. Bệnh nhân không quên công trình y khoa của ông. Nhiều thành phố có tên đường là ông. Nha Trang và Đà Lạt ghi dấu ấn của ông qua nhiều hình thức, nhất là có công viên vinh danh ông. Mộ ông tại Suối Dầu và thư viện ông tại viện Pasteur Nha Trang nay là di tích lịch sử quốc gia. Năm 2014 Việt Nam truy tặng ông là ‘công dân danh dự’ và cho ra mắt bộ sưu tập tem bưu chính mang hình ảnh ông.

Đại học Yersin Đà Lạt
May mắn biết bao dân nước ta có một ân nhân vĩ đại, một ‘huyền thoại’ đáng kính phục như ngài Yersin !

Yersin đã sống trọn đời độc thân, xa lánh chốn phồn hoa Paris để theo con đường phục vụ tha nhân.

Lời cuối của ông: “Tôi muốn theo chân Chúa Ky Tô để phục vụ mọi người trọn đời tôi”.

Đáng ngưỡng mộ thay !


LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Wednesday, September 19, 2018

ÔNG TỔ BÁO CHÍ VIỆT NAM : NGUYỄN VĂN VĨNH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Phổ biến chữ quốc ngữ :

Toàn dân con nước Việt đều sung sướng hãnh diện với chữ Quốc ngữ. Trước tiên họ ghi ơn cha Đắc Lộ cùng với một số thừa sai Âu Châu đã dày công tìm tòi và sáng chế ra loại chữ tân kỳ này cho dân tộc ta, dựa theo các mẫu tự La Tinh. Nhưng kế đó là chuyện nhớ ơn các nhà tiền phong đã phổ biến và cải thiện loại chữ thực dụng này. Người được kể tới hàng đầu chính là ông Nguyễn văn Vĩnh.

Công lao ông này nhiều lắm : Là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà dịch thuật và cũng là nhà chính trị nữa. Nhưng nếu ông không hết lòng phổ biến chữ này, thì các cố gắng khác khó mà thành tựu. Tiên vàn ông học nhiều ngoại ngữ để mở rộng kiến thức. Ý tưởng đầu tiên là thử dịch một số tác phẩm Pháp ngữ cho dân ta đọc. Rồi ông xin mở trường, dạy cả tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Thiên hạ tấm tắc khen ngợi và biết ơn. Chúng ta sẽ đề cập tới chuyện ông ra mắt tờ báo đầu tiên tại Việt Nam, năm 1912, lấy tên là ‘Đông dương tạp chí’, hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ.

Ai ai cũng công nhận ông là một trong những người có công lớn nhất cho cuộc cách mạng chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ thời kỳ này có rất ít người chấp nhận sử dụng, trong khi đó chữ Hán, chữ Nôm đã tồn tại lâu đời và được tất cả mọi người chấp nhận nó như là một thứ chữ truyền thống. Bên cạnh việc vận động mọi người cùng tham gia cổ động và viết chữ Quốc ngữ, vấn đề ngữ pháp tiếng Việt cũng được ông đưa ra bàn luận, để đi đến thống nhất trong toàn quốc, về cách đặt câu, cách viết, chấm phẩy, cách nói, viết cho cả 3 miền và cần phải có một thể lệ chung .

Nguyễn Văn Vĩnh đã lần mò theo con đường Báo chí nhằm làm cho tiếng Việt ngày càng trở nên mạch lạc, khoa học, đủ sức sánh vai với bất kỳ một loại ngôn ngữ nào của các dân tộc trên thế giới. Nguyễn Văn Vĩnh đã lý giải với đồng bào mình về giá trị của chữ Quốc ngữ như sau: “Thường có kẻ bênh chữ Nho nói rằng: chữ Nho nghĩa lý sâu sắc, có thể làm ra văn bài hay. Ta tưởng cái sâu sắc bởi ở sự dùng chữ mà ra. Ví ta có được vài trăm truyện hay bằng truyện Kim Vân Kiều, thì xem tiếng ta có kém gì chữ Nho đâu”!

Nhờ nhận thức này, Nguyễn Văn Vĩnh lập tức nghĩ đến việc chuyển tải tác phẩm bất hủ Kim Vân Kiều của đại thi hào Nguyễn Du từ chữ Nôm ra chữ Quốc Ngữ . Rồi ông cũng là người đầu tiên dịch toàn bộ tập truyện Ngụ ngôn của Lafontaine từ tiếng Pháp ra tiếng Việt. Những việc làm này Nguyễn Văn Vĩnh thực hiện khi ở độ tuổi ngoài 20 ! Để làm gì? Ông muốn chứng minh với toàn xã hội và đồng bào mình, rằng tiếng mẹ đẻ của chúng ta, chữ Việt của chúng ta đầy đủ sức lực để chuyển tải những tinh hoa văn hóa trong ngôn ngữ của các nền văn hóa và các dân tộc khác.

Một trong những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc phát triển báo chí tiếng Việt, là ở chỗ ông là một trong những người đi tiên phong trong việc viết phóng sự. Qua hai phóng sự Từ triều đình Huế trở về và Một tháng với những người đi tìm vàng (đang viết dở thì ông chết) được đăng trên tờ L’Annam nouveau. Tuy chưa hẳn đã là những hình mẫu chuẩn mực của phóng sự, nhưng rõ ràng đây là những bài đầu tiên mang đậm dấu ấn thể loại phóng sự, mà nhiều nhà báo sau này đã vận dụng và tiếp tục sáng tạo trong nền báo chí tiếng Việt.

Thêm vào đó, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các bạn đồng chí hướng, lần lượt làm đơn xin thành lập Hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp du học, Đông Kinh nghĩa thục… Được dịp qua Pháp, tận mắt chứng kiến nền văn minh phương Tây, ông trở về nước với quyết tâm phát triển nền công nghiệp xuất bản, mà đầu tiên là phát hành báo chí, để qua đó truyền bá chữ Quốc ngữ, và bài bác các hủ tục phong kiến lạc hậu, nhằm canh tân đất nước, vì vậy ông đã xin thôi làm công chức và trở thành nhà báo tự do.

Ông tổ ngành báo chí :



Năm 1908, ông làm chủ tờ báo ‘Đại Nam Đồng văn nhật báo’, in bằng chữ Hán và quốc ngữ. Sau đổi tên là ‘Đăng cổ tùng báo’. Năm 1912, mới xuất hiện tờ ‘Đông dương tạp chí’ hoàn toàn bằng quốc ngữ.

Mãi tới năm 1917, dân mình mới thấy có tờ Nhật Báo tiên khởi, tên là ‘Trung Bắc tân văn’, do ông làm chủ bút. Năm 1919, tờ Đông dương tạp chí đổi tên là ‘Học báo’. Có sự cộng tác của hoạc giả Trần trọng Kim (sau này là thủ tướng.

Giáo sư Dương quảng Hàm có viết về Nguyễn văn Vĩnh thế này :

“--Về tư tưởng : Ông là người học rộng, biết nhiều, rành rõ tư tưởng học thuật của Âu Tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng phong tục của dân ta, muốn đem những quan niệm phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng, nhưng cũng chịu khó tìm tòi và biểu lộ cái dở, cái xấu cũng như cái hay, cái ý nghĩa của các chế độ, tục lệ xưa...

--Về văn từ : Văn ông bình thường giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có châm chước theo cú pháp của văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta. Ông lại chịu khó moi móc trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ có màu mẽ, để diễn đạt ý tưởng (cả những ý tưởng mới của Âu Tây), thành ra đọc văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn nguyên tác bằng tiếng Việt Nam vậy. Kể về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp”.

Để khen ông, ta có thể nói rằng Nguyễn Văn Vĩnh là người rất có công lớn với quốc văn. Nhưng không phải chỉ nhờ ở những sách dịch hay sáng tác, mà còn là vì ông đã đứng chủ trương những tờ tạp chí, ở vào buổi mà đối với văn chương, mọi người hãy còn bỡ ngỡ. Ông đã hội họp được những cây bút có tiếng, gây được phong trào yêu mến quốc văn, nhất là trong giới thanh niên trí thức đương thời . Nhà văn Vũ Bằng có viết rằng : "Thú thực cho đến bây giờ, tôi sợ nhiều người giỏi, nhưng chưa sợ như sợ cái tài viết báo của ông. Đem so sánh, tôi vẫn nghiêng về Nguyễn Văn Vĩnh nhiều hơn, và cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy ai viết báo, viết văn,qua nhiều loại khác nhau một cách nghĩa lý và tài tình như ông Vĩnh. Ông viết đủ mọi thứ, dịch đủ các loại, viết tin, viết xã luận, khảo cứu, phóng sự”.

Ngàn đời ghi ơn :


Danh nhân Nguyễn văn Vĩnh nằm xuống, để lại một di sản to lớn giá trị vô song. Có vài người thiển cận chỉ trích ông thân Pháp hại người Việt, nhưng họ quên rằng ông thực sự rất yêu nước, chỉ muốn dựa vào văn minh Pháp để cải tiến đời sống dân tộc mình. Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam duy nhất cùng với bốn người Pháp đồng ký tên đòi trả tự do cho Phan Chu Trinh (lien quan trường ‘yêu nước’ Đông kinh ghĩa thục. Việc làm này cùng với việc ông đã dịch toàn bộ bài viết "Đầu Pháp chính phủ thư" của Phan Chu Trinh từ Hán văn ra Pháp văn. Bài này còn còn được gọi là "Thư trước tác hậu bổ" (Lettre de Phan Chu Trinh au gouverneur général en 1906), khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị chính quyền thực dân gọi lên đe dọa gay gắt. Thực dân Pháp còn đã đóng cửa Đăng cổ tùng báo, đồng thời cấm Nguyễn Văn Vĩnh diễn thuyết, lưu hành và tàng trữ các ấn phẩm của Phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1932, ông đi dự họp Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương tại Sài Gòn. Trong một buổi họp, ông đã thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị, vì điều đó chỉ có lợi cho ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tế Đông Dương.

Khi đang họp thì Nguyễn Văn Vĩnh nhận được trát của tòa án, đòi tịch biên toàn bộ gia sản, vì sau nhiều lần "mặc cả" giữa Chính quyền và Nguyễn Văn Vĩnh, nhà cầm quyền đòi Nguyễn Văn Vĩnh phải chấp nhận 3 điều kiện sau : Chấm dứt việc đả phá Triều đình Huế và quan Thượng thư Phạm Quỳnh. Đồng ý vào Huế làm quan. Dừng toàn bộ việc viết báo.

Năm 1935, Chính quyền đổi ba điều kiện nêu trên với Nguyễn Văn Vĩnh còn tệ hại hơn và bắt buộc phải chọn một điều kiện, đó là : Chấm dứt toàn bộ việc viết. Chấp nhận đi tù (dù chỉ một ngày). Sang Lào tìm vàng để trả nợ.

Tháng 3 năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định đi tìm vàng để trả nợ, ông sang Sê Pôn (Lào). Ngày 1 tháng 5 năm ấy (1936), người ta tìm thấy Nguyễn Văn Vĩnh một mình Bất tỉnh trên con thuyền độc mộc, một tay vẫn cầm bút, và tay kia cầm quyển sổ, trôi giữa dòng Sê Băng Hiêng (tên một nhánh của sông Sê Pôn). Ngưòi dân địa phương đưa con thuyền cập vào chân cầu Sê Pôn để chuyển lên trạm y tế Sê Pôn cứu chữa, nhưng đã quá muộn. Nhà cầm quyền loan báo : Nguyễn Văn Vĩnh chết ngày 2 tháng 5 năm 1936 vì sốt rét và kiết lỵ (lúc ấy ông mới 54 tuổi). Sau đó, thi hài Nguyễn Văn Vĩnh đã được đưa về Hà Nội để cử hành tang lễ trong 3 ngày, từ 6 đến 8 tháng 5 năm 1936. Tại buổi lễ tang, đông đảo giới báo chí của cả ba kỳ đã đến tiễn đưa ông dưới dòng chữ ‘Kính viếng Ông tổ của nghề báo’.

Thế là ông một đời lo cho nền văn học quốc ngữ, nhất là qua việc làm báo dân cao trình độ dân trí. Mà rõ ràng ông có lòng yêu nước, không khuất phục thực dân Pháp và chống đối những kẻ nịnh bợ kẻ chiếm đóng đất nước.

Ông làm gương khác thường trong công tác dịch thuật, sáng tác và viết báo, dẫn lối đi cho nền văn học quốc ngữ. Nếu đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh mà chỉ dừng lại ở việc ông là thủy tổ của làng báo tiếng Việt, là người có công phát triển chữ quốc ngữ, và là nhà dịch thuật xuất sắc thì chưa đầy đủ và thỏa đáng. Điều xứng đáng hơn cũng là đóng góp lớn nhất ở ông chính là về tư tưởng. Đó là một trong những nhà tư tưởng dân chủ đầu tiên của Việt Nam mang tính cách khai sáng. Ông cũng là người biết dùng văn học và văn hóa để thấm sâu vào lòng người, truyền bá những tư tưởng tiến bộ, vượt thời đại.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, September 9, 2018

SIÊU PHẨM VĂN HỌC TRUYỆN KIỀU

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Về tác giả Nguyễn Du



Nhà thơ Nguyễn Du có chánh quán làng Tiên Điền (nay là Xuân Tiên), xưa thuộc trấn Nghệ An, nay là tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng ông được sinh ra năm 1766 tại kinh đô Thăng Long (phường Bích Câu, gốc của tác phẩm ‘Bích Câu kỳ ngộ’ kể về cuộc tình Tú Uyên-Giáng Ngọc), trong lúc cha ông làm quan vào thời chúa Trịnh Sâm (nhà Trịnh lấn quyền vua Lê). 20 năm sau, vì thời thế, ông về sống tại Tiên Điền, rồi ra làm quan nhà Nguyễn (để có dịp đi sứ qua Tầu năm 1813). Thiên hạ tin rằng lòng ông vẫn hướng về nhà Lê cho tới ngày tạ thế vào năm 1820.

Ông có tên ‘chữ’ là Tố Như, khi viết thì lấy hiệu là Thanh Hiên. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, lấy vợ tên Trần thị Tân, gốc Kinh Bắc (Bắc Ninh). Trước khi viết truyện ‘Kiều’ bằng chữ Nôm, ông đã nổi tiếng với ‘Thanh Hiên thi tập’, ‘Bắc hành tạp lục’ và ‘Nam Trung tạp ngôn’ bằng chữ Hán. Chưa kể một số văn thi phẩm lớn nhỏ khác.

‘Truyện Kiều’ là tên gọi thông thường theo tên nhân vật chính trong tác phẩm của ông; còn lúc sáng tác, Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là ‘Đoạn trường tân thanh’, nghĩa là ‘Tiếng nói mới về một nỗi đau đến đứt ruột’. Đoạn trường tân thanh được sáng tác không phải do nhà thơ đơn thuần tưởng tượng, hư cấu để viết ra, mà ông viết dựa theo cốt truyện một tiểu thuyết ‘chương hồi’ bằng văn xuôi của Trung Quốc, có tên là ‘Kim Vân Kiều truyện’ (truyện về Kim Trọng, Thúy Vân, Thúy Kiều) của một tác giả hiệu là ‘Thanh Tâm Tài Nhân’( sống vào thế kỷ 16 đời Minh ).

Trong thời đại của Nguyễn Du các nhà thơ sáng tác thường dựa theo một tác phẩm của Trung Quốc như thế. Nói chung Nguyễn Du dựa khá sát vào tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân khi viết lại Truyện Kiều : cụ thể là những nhân vật trong Truyện Kiều của ông đều là những nhân vật lấy từ Kim Vân Kiều truyện; những tình tiết, biến cố, cốt truyện trong Truyện Kiều hầu hết đều có trong Kim Vân Kiều truyện. Nhưng cái đặc sắc của Nguyễn Du là tuy dựa vào tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng lại hết sức sáng tạo, ở chổ Nguyễn Du không phải nhằm chuyển dịch tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân sang tiếng Việt, mà ông tái tạo, bổ sung vào đó những điều mà ông từng day dứt, trăn trở, và với tài năng nghệ thuật tuyệt vời của mình, ông đã thể hiện lại bằng ngôn ngữ và thể thơ dân tộc Việt Nam, cho nên tại quê nhà,tác phẩm của Nguyễn Du có sức sống mãnh liệt hơn và có chiều sâu trí tuệ mà nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân không có được.

Hiểu với Nguyễn Du về truyện Kiều :



Truyện Kiều là truyện về cuộc đời của một người con gái bất hạnh, có tên là Vương Thúy Kiềụ. Người con gái ấy có tài, có sắc, xuất thân trong một gia đình bình thường, lớn lên nàng yêu một chàng trai là Kim Trọng, nhưng rồi tai họa đã xảy đến cho gia đình : cha và em của nàng bị bắt, bị đánh đập, nhà cửa bị cướp phá sạch sành sanh. Thúy Kiều không có cách nào để cứu nguy cho gia đình, nàng buộc lòng phải bán mình cho người khác để lấy tiền chuộc cha và em; từ đó cuộc đời nàng trải qua không biết bao nhiêu là tai họa : nàng bị lừa lọc phải hai lần làm kỹ nữ ở nhà chứa, làm lẽ, đi ở...

Có thể nói một câu truyện thê thảm về vận mệnh của một người con gái như thế, bản thân nó đã có sức gây xúc động lớn. Nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Du, câu chuyện thê thảm ấy lại không thuần túy là vận mệnh của một người con gái, hay nói cách khác là, thông qua vận mệnh của một người con gái, nhà thơ đã nói lên vận mệnh của con người nói chung. trong một xã hội bất công tàn bạọ. Nhà nghiên cứu Hoài Thanh cho rằng vấn đề đặt ra trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là vấn đề quyền sống của con người trong xã hội phong kiến. Nhà thơ Chế Lan Viên thì viết : “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc, Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên...”

Nói cho đúng, khi viết tác phẩm của mình Nguyễn Du không hoàn toàn ý thức hết những điều ông đã trình bày. Với một quan niệm truyền thống, ông cắt nghĩa những bất hạnh của Thúy Kiều chính là do mâu thuẩn giữa Tài và Mệnh : Thúy Kiều nhiều tài, nên số phận của Thúy Kiều bi thảm. Tuy quan niệm là như thế, nhưng khi tái hiện cuộc sống vào tác phẩm, Nguyễn Du đã hết sức trung thực, nên vấn đề đặt ra trong tác phẩm của ông có ý nghĩa sâu sắc hơn rất nhiều so với những gì mà ông đã phát biểụ. Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là cảm hứng về thân phận con người : Con người sẽ sống như thế nào giữa một xã hội bất công, tàn bạo. Khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều, nhà thờ muốn thể hiện ở nhân vật này tất cả những gì là ưu tú, là tinh hoa của con ngườị Thúy Kiều, không phải chỉ có tài sắc khác thường như các cô gái khác trong văn học cổ, mà Thúy Kiều là tuyệt đỉnh của tài sắc; và không phải chỉ có tài sắc, mà Thúy Kiều còn có ý thức sâu sắc về cuộc sống của mình và của xung quanh. Có thể nói Nguyễn Du muốn xây dựng nhân vật Thúy Kiều như một tượng trưng cho tất cả những gì là đẹp, là tinh hoa của con người. Một nhân vật như thế lẽ ra phải được sống một cuộc đời tốt đẹp, hạnh phúc, nhưng vì nàng sống trong một xã hội bất công, tàn bạo nên cuối cùng những phẩm chất cao qúy nhất của nàng lại trở thành những tai họa đối với nàng. Do có tài có sắc, Thúy Kiều đã trở thành miếng mồi ngon cho cái xã hội đó xâu xé.

Độc giả đánh giá rất cao Nguyễn Du :



Nguyễn Du là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc, ông hết lòng thương yêu và trân trọng con người, mà phải thể hiện những cảnh con người bị vùi dập trong tác phẩm, nên ngòi bút của ông nhiều khi phẫn nộ và nhiều khi lại cay đắng, chua xót. Có người nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”. Cố nhiên đã yêu thương con người thì phải chống lại những lực lượng chà đạp con người. Về phương diện này có thể nói Truyện Kiều là một bản cáo trạng lên án đanh thép tất cả những lực lượng chà đạp con người. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chà đạp Thúy Kiều không phải một vài con người cá biệt nào, mà là cả một xã hội, từ kẻ đại diện cho cái xã hội ấy như bọn quan lớn, quan bé, gia đình quan lại, đến bọn thừa hành như đám nha lại, rồi những kẻ sống bằng nghề buôn bán nhan sắc của phụ nữ… Trong cái xã hội này, sau thế lực của bọn qúy tộc là thế lực của đồng tiền. Đồng tiền thực sự đã trở thành một tai họa đối với con người. Đồng tiền chi phối việc xử kiện của bọn quan lại; đồng tiền đã biến những nho sĩ như Mã Giám Sinh, Sở Khanh thành những tên ma cô dắt gái; đã biến Thúc Sinh thành một kẻ ăn chơi trác táng… Đồng tiền có thể mua bán cả cái trinh tiết thiêng liêng của người phụ nữ…

Sống trong một xã hội như vậy những kẻ xấu, bất lương thì tha hồ lộng hành, còn người tốt, lượng thiện thì không có chỗ để tồn tại. Thúy Kiều bị dày vò đủ đường, mà chỉ có một người duy nhất dám bênh vực nàng là Từ Hải, thì cái xã hội ấy lại coi Từ Hải là giặc, và cuối cùng bằng một sự phản bội xấu xa đã giết chết Từ Hải. Trong Truyện Kiều, Từ Hải bị giết và sau đó Thúy Kiều tự tử trên sông Tiền Đường là những kết thúc bi thảm nhưng không thể khác được. Việc Thúy Kiều được cứu sống, rồi được tái ngộ Kim Trọng với biết bao chua xót, bẽ bàng ở cuối truyện không hề làm giảm ý nghĩa ‘tố cáo’ của tác phẩm, mà đúng như nhà thơ Xuân Diệu nhận xét, nó là “bản cáo trạng cuối cùng” của tác phẩm này.

Một số người còn nói Nguyễn Du chọn đề tài ‘Kim Vân Kiều truyện’ là vì ông thấy số phận của Thuý Kiều có phần giống cảnh ngộ của ông. Thuý Kiều vì gia biến mà phải bán mình chuộc cha, đem thân làm vợ người khác nên không trọn lời nguyền với Kim Trọng. Nguyễn Du mượn cảnh đó để nói lên nỗi lòng của mình, vì vận nước thay đổi mà phải đem thân làm bề tôi cho một triều đại khác nên không trọn đạo trung quân với nhà Lê. (việc Kiều bán mình chuộc cha đã nhân danh chữ ‘Hiếu’, rồi Kiều khuyên Từ Hải ra hàng đã nhân danh chữ ‘Trung’; và trong mười lăm năm lưu lạc, không lúc nào không nhớ thương Kim Trọng, Kiều vẫn nghĩ mình giữ vẹn chữ ‘Trinh’ với chàng). Mặt khác, ông cũng không thể đưa thực trạng xấu xa của xã hội phong kiến Việt Nam vào trong tác phẩm của mình. Vì vậy, ông mượn câu chuyện của Trung Quốc để viết là để tránh khỏi bị triều đình nhà Nguyễn bắt tội.

Truyện Kiều không những có nội dung sâu sắc, mà nghệ thuật của nó cũng đạt đến một thành tựu rực rỡ. Nói đến thành công trong nghệ thuật Truyện Kiều, trước hết người ta thường nói đến thành công của nhà thơ trong việc vận dụng tiếng Việt và thể thơ lục bát của dân tộc, với tất cả 3254 câu. Nói cho rõ, giá trị của tập truyện này nằm chính ở căn bản văn chương, ở kỹ thuật miêu tả, tự sự và diễn đạt tình cảm của tác giả. Trong Truyện Kiều có sự kết hợp sức nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Truyện Kiều có không ít từ Hán Việt và điển cố lấy trong sách vở, với lối diễn đạt đài các, qúy phái, nhưng tất cả đều được sử dụng có liều lượng, đúng nơi, đúng lúc, nên đều hợp lý. Mặt khác trong Truyện Kiều lại có nhiều lời ăn tiếng nói hằng ngày, ca dao tục ngữ nhưng tất cả cũng được sử dụng có chọn lọc tinh vi, khéo léo, kết hợp hài hòa với ngôn ngữ bác học. Thể thơ lục bát trong Truyện Kiều được nhà thơ khai thác triệt để khả năng biểu hiện của nó, tinh tế, giản dị mà có âm vang, có thể diễn đạt được nhiều sắc thái của cuộc sống và những nét tinh vi, tế nhị trong tình cảm của con người.

Đứng về mặt nghệ thuật, cho đến nay Truyện Kiều vẫn là hòn ngọc sáng nhất và là đỉnh cao chói lọi nhất của tiếng nói Việt Nam, của văn học dân tộc. Thiên tuyệt bút này của Nguyễn Du là sự kết tinh tinh hoa của cả quá trình mấy trăm năm hình thành và phát triển nền văn học cổ điển viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Nó cũng được xem là hòn đá tảng, đặt nền móng cho sự phát triển của nghệ thuật văn học dân tộc sau này. Nếu như thi hào Nguyễn Du khiêm tốn cho rằng những "lời quê chắp nhặt" của ông chỉ đủ "mua vui một vài trống canh", thì giờ đây, thế hệ con cháu hôm nay đã biết phát huy, sáng tạo với nhiều hình thức thể hiện đa dạng, phong phú để Truyện Kiều ngày càng lan tỏa, ăn sâu vào đời sống, nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người.

Xin nhắc lại : người ta thán phục Nguyễn Du với nghệ thuật dẫn truyện, đi kèm nghệ thuật miêu tả, bao gồm miêu tả con người lẫn miêu tả thiên nhiên, cảnh vật. Nhà thơ thường miêu tả rất tiết kiệm. Chỉ cần một vài câu thơ ông đã có thể khắc họa rõ nét được ngoại hình của một nhân vật hay dựng lên được một bức tranh phong cảnh. Nhưng tuyệt diệu nhất của nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều là miêu tả nội tâm nhân vật. Có thể nói trong văn học cổ không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội tâm của nhân vật Thúy Kiều. Có thể nói chính nhờ chiều sâu nhân bản ở nội dung của tác phẩm lại được thể hiện với nghệ thuật tuyệt vời, nên Truyện Kiều của Nguyễn Du trở nên bất hủ, sống mãi với thời gian. Việc đọc và tìm hiểu Truyện Kiều là một đường tắt đi vào văn hóa truyền thống Việt Nam. Thành ra học giả Phạm Quỳnh đã thốt lên “Truyện Kiều còn thì tiếng nước ta còn; mà tiếng nước ta còn thì nước ta sẽ ‘mãi’ còn”.

Vang danh khắp chốn :



Cho tới nay, Truyền Kiều đã được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc đã liệt Truyện Kiều vào hàng di sản thế giới. Vào dịp kỷ niệm 200 năm sinh nhật, Nguyễn Du đã được xưng tụng là ‘danh nhân văn học’ hoàn vũ.

Riêng tại Việt Nam, khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến Truyện Kiều, như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trò Kiều. Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanh Kiều cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ.

Truyện Kiểu có giá trị nội dung và nghệ thuật đạt tới trình độ xuất sắc, điêu luyện, thể hiện tài năng bậc thầy của thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều xứng đáng là đỉnh cao chói lọi của thi ca dân tộc. Truyện Kiều được nhiều thế hệ người đọc Việt Nam yêu thích. Nguyễn Du được tôn vinh là đại thi hào, ( đã là Danh nhân văn học thế giới ). Tên tuổi của ông đã mang lại vẻ vang cho nền văn học nước nhà. Cái nghệ thuật cao tay của thi hào còn nằm ở chỗ dù có mượn một tích truyện, một nhân vật nước ngoài để sáng tác, nhưng sau khi tác phẩm đó đã đến tay người đọc, đã lọt vào dân gian, thì nó hoàn toàn trở nên sản phẩm của đất nước, cũng như những giá trị ưu việt, về văn hóa và tinh thần của một dân tộc, là thuộc kho tàng chung của loài người.

Cái vĩ đại của Nguyễn Du là ở chỗ đã biết khai thác, một cách sâu sắc và ở một mức độ rất cao, nếu không nói là tuyệt vời, những khả năng tiềm tàng to lớn của tiếng dân tộc, và càng làm cho ta nhận thức rõ cái giá trị của nó. Truyện Kiều là một sự vận dụng thiên tài kho tàng văn học dân gian. Nó không chỉ nói lên tính phong phú của tiếng Việt, có thể dùng những lời rất thanh nhã để tả những sự việc rất tục, rất sỗ sàng. Và ngược lại, cũng có thể dùng những tiếng rất tục, rất phàm mà câu văn và ý vẫn không mất tính chất thanh nhã. Văn truyện Kiều đẹp không phải chỉ ở chỗ tác giả dùng toàn những tiếng nôm na mà bất cứ người dân Việt nào, lọt lòng mẹ ra, cũng quen tai thuộc miệng, nhưng còn ở chỗ nó trở thành những phương ngôn, tục ngữ, ca dao, câu ví, cũng như nó đã thành hình thức diễn đạt duy nhất và phổ biến nhất cái ‘triết học bình dân’ của ta, đã bao đời cũng từng là hình thức phong phú nhất của nền văn học dân gian Việt-nam.

Năm 1926, Rene Crayssac, một nhà thơ người Pháp, khi dịch Truyện Kiều ra tiếng nước mình, đã viết bài nghiên cứu có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, trong bất kỳ thời đại nào". Ông so sánh "Trong tất cả nền văn chương Pháp, không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam". Cuối cùng ông kết luận : "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc".

Di chúc cuối của Nguyễn Du :



Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ Tài.


Thực tế trong đời sống xã hội hiện nay luôn có sự đan xen tồn tại giữa cái tốt và cái xấu, cái tích cực và tiêu cực…thì lòng người cũng thế, cái Tâm con người cũng vậy. Điều đáng nói là người có Tâm, sống trung thực, sẵn sàng hy sinh quên mình cứu giúp người hoạn nạn, lại là những con người bình thường, sống an bình hạnh phúc…Nguyễn Du để cho Truyện Kiều trở thành tác phẩm lớn nhất và duy nhất của văn học cổ điển Việt Nam có được giá trị của một ‘bức tranh đời’, với “những điều trông thấy mà đau đớn lòng,” chất chứa trong một trái tim lớn.

Cụ Vân Hạc, trong sách ‘Truyện Kiều chú giải’, có viết rằng bên nhà Phật bảo rằng con người may rủi là do cái ‘nghiệp’, chứ không hề có liên hệ chi với ‘ông Trời’ hay đấng ‘Tạo hóa’. (các triết gia Tây phương coi đó là triết lý ‘vô thần’). Còn Nho giáo thì lại ưa thuyết ‘Thiên mệnh’ : Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại Thiên.

Còn bên đạo Chúa thì sao ? Cái Tâm là gốc ở con tim, là câu chuyện ‘yêu thương tha nhân như chính mình’. Mà tình yêu đã khởi đầu từ Thiên Chúa : Ngài vì thương yêu mà tạo dựng và cứu chuộc. Ngôi Hai xuống thế dạy bài học yêu thương xả thân tuyệt hảo. Ngài mời gọi tất cả hãy tới với Ngài để học bài học căn bản cho cuộc hạnh phúc tối hậu “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Cái TÂM cao cả nhất nằm tại chỗ này.

Nếu cụ Nguyễn Du viết từ đầu truyện “Trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, thì nhờ cái TÂM cao cả này, cái ‘Tài’ và cái ‘Mệnh’ sẽ hết ghét nhau. Nghĩa là nếu có đủ TÂM theo đường Chúa dạy, thì ta sẽ có thể sống trong hoàn cảnh ‘Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai’ !

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Monday, August 20, 2018

XÂY DỰNG NIỀM VUI GIỮA MỘT THẾ GIỚI BẤT AN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

Khi xã hội phát triển, thế giới văn minh, cuộc sống trở nên phức tạp, bận rộn với quá nhiều chuyện, lắm người thường mất quân bằng trong tâm lý, nên dễ ‘phát điên’ hơn những tháng ngày xưa kia...Ta cứ phải làm quen với chuyện cạnh tranh, để giành những thứ tốt nhất. Tiền bạc, danh vọng và quyền lực trở thành thước đo hạnh phúc, mà người ta sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được. Nhưng bạn đã biết : tất cả chúng ta đều gặp khó khăn trong cuộc sống vật chất này. Ta trở nên mong manh, dễ bị ảnh hưởng bởi người khác, dễ tổn thương, luôn căng thẳng và không bao giờ cảm thấy hài lòng với những gì ta có. Ta ghen tị với vinh quang của người đời, tự dằn vặt mình kém cỏi, và quắc mắt trước mọi người để bảo vệ cái tôi vĩ đại của bản thân. Rốt cuộc, chỉ có chúng ta là buồn bã, mệt mỏi và chán nản. Đó là khi ta cần được nhắc nhở : phải nghỉ ngơi, nhìn sâu bên trong bản thân mình và tìm kiếm cho ra bình an nội tâm.

Bình an nội tâm là một nghệ thuật – nghệ thuật của việc tạo ra và duy trì sự tĩnh lặng của tâm hồn, ngay cả khi thế giới xung quanh là một mớ hỗn độn. Mặc dù đã biết định nghĩa, nhiều người vẫn không hiểu thấu cụm từ này, và tiếp tục làm sai lầm khi hỏi “Làm sao tôi có thể tìm được bình an nội tâm trong cuộc sống?”. ‘Tìm’ mang nghĩa chúng ta vẫn phụ thuộc vào một cái gì đó ngoại tại, xa vời. Với ‘bình an nội tâm’, ta không tìm, và có tìm cũng không thấy. Bởi đó là thứ ta phải tự mình tạo ra.

CÁC TÂM LÝ GIA KHUYÊN GÌ ? NGỪNG ĐÁNH GIÁ.



Bạn thấy không? Dường như bất kỳ vấn đề nào cũng dính dáng đến người khác. Bao giờ cũng là tại anh ta/ cô ta/ nó / họ, mà bạn phải muộn phiền. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao người ngoài lại có ảnh hưởng mạnh mẽ như vậy đến cuộc sống của bạn? Hay thực ra chính bạn đang để cho họ ảnh hưởng đến mình? Thử cố gắng đưa họ ra khỏi tâm trí và chỉ tập trung vào việc của chính ta mà thôi; cuộc sống sẽ đơn giản và dễ thở hơn nhiều.

Một điều thú vị là 99% những ý nghĩ tiêu cực về một ai đó sẽ ở lại trong tâm trí của bạn thay vì được bày tỏ đến “đối tượng”. Điều này có nghĩa: không ai khác ngoài bạn là nạn nhân của những ý nghĩ ấy. Thử hình dung một con bọ cạp bị giết bởi nọc độc của chính nó, và bạn sẽ thấy. Còn gì khờ dại hơn việc tự đầu độc tâm trí mình bằng sự tiêu cực, đúng không?

HIỂU ĐỂ CHẤP NHẬN



“Tại sao mọi thứ đều chẳng như ý tôi?”

Khi ta bắt đầu thấy không vừa ý với điều gì cũng là lúc ta muốn kiểm soát những gì thuộc về thế giới bên ngoài. Thế nhưng, ham muốn này sẽ khiến nội tâm ta xáo trộn. Bởi lẽ, điều duy nhất chúng ta có thể kiểm soát là chính mình. Bạn khó chịu vì cuộc đời không công bằng ? Nhưng bạn làm gì được nào? Cuộc đời vốn dĩ không bao giờ công bằng. Thay vì tức tối và cảm thấy bất hạnh, hãy thay đổi thái độ của bản thân.

ĐƠN GIẢN HÓA MỌI VIỆC



Cuộc sống vốn đã đủ phức tạp rồi, không cần phải trầm trọng hóa mọi thứ thêm nữa. Nếu bạn có thể làm điều gì đó để đơn giản nó, hãy làm. Nếu không, hãy để mọi thứ được tự nhiên! Nếu bạn thèm hamburger, hãy ăn hamburger. Nếu bạn thấy mình quá béo, hãy giảm béo. Nếu bạn yêu ai đó, nói với họ. Nếu bạn chưa tìm thấy đam mê thực sự, hãy thử nhiều công việc khác nhau cho đến khi tìm thấy nó. Nếu bạn thích làm nhiều việc, hãy làm tất cả, lần lượt từng việc một. Bạn thấy chứ? Mọi thứ không nghiêm trọng như chúng ta nghĩ. Chỉ có những ý nghĩ phức tạp mới khiến ta lo lắng. Hãy suy nghĩ đơn giản, làm những gì mình muốn (miễn là hợp pháp và không phương hại ai) và tận hưởng cuộc sống!

TRÂN TRỌNG NHỮNG GÌ TA CÓ



Niềm vui khi ta nhận được ‘điểm 9’ sẽ sớm phai đi, nhưng lòng đố kị với kẻ được ‘điểm 10’ sẽ còn vương lại mãi trong tâm trí. Đó là chuyện muôn thuở. Ta thường thèm muốn nhiều hơn, nhưng hiếm khi dừng lại để nhận ra những gì chúng ta thực sự có . Chúng ta so sánh mình với người khác, chỉ để thấy rằng hiện tại của ta không đủ tốt. Và bằng cách đó, ta gây áp lực không cần thiết lên chính bản thân mình. Và đó là khởi nguồn của mọi bi kịch.

Khao khát chinh phục những điều tốt hơn là việc đáng hoan nghênh, bởi lẽ nó là nguồn động lực để ta hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, cũng cần phải trân trọng cái nền tảng nơi ta đang đứng, những gì ta đang có trong tay. Đôi khi ta dồn sức chiến đấu vì những điều to tát, mà bỏ qua những niềm vui hàng ngày : tiếng cười của con trẻ, sự quan tâm chăm sóc của người thân, một cuốn sách hay, hay một mái nhà che chở ta khỏi sương gió nắng mưa. Đừng bao giờ quên những điều nhỏ bé mà quý giá vô cùng đó!

Đời đẹp quá! Đừng nghĩ mình cô độc,

Nhận hồng ân mà Thượng Đế trao ban,

Sống mỗi ngày là diễm phúc muôn vàn

Hãy hân hoan vì cuộc đời diễm tuyệt.

(Tổng giám Mục Fulton Sheen)

LỰA CHỌN TÍCH CỰC



Hôm nay là sinh nhật của bạn, nhưng không ai nhớ đến? Sao không thử chủ động gọi cho vài người bạn và rủ họ ăn tối? Đó là ngày của bạn kia mà! Hãy khiến bản thân vui vẻ, bằng cách chia sẻ niềm vui cùng người khác, thay vì ở một mình, gặm nhấm nỗi cô đơn buồn bã và trách móc mọi người, chỉ vì họ quá mệt mỏi và bận rộn để nhớ ra. Tất cả là tuy bản thân chúng ta. Cuộc đời ngắn ngủi lắm : hãy chọn sống vui. Chỉ có thế !

ĐẠO CHÚA GIÚP GÌ CHO TA ?



Kinh Thánh dạy rằng kẻ nào bám vào Thiên Chúa qua đức Tin, Cậy và Mến thì sẽ giống người xây nhà mình trên núi đá, dù mưa sa gió cuốn cũng không bao giờ phải nao núng. Và chính Chúa Giê-su đã long trọng hứa sẽ ban bình an chân thật cho những ai tin vào Ngài, một thứ bình an không giống của trần đời, rồi thêm “Các con đừng sợ, vì Thày đã chiến thắng thế gian”.

Chúa muốn chúng ta coi Ngài là trung tâm đời mình. Tại sao Chúa phải là trung tâm đời sống chúng ta? Bởi vì, không có bình an hay hy vọng đích thực nào mà tách rời khỏi sự nhận biết Chúa. Ngài là Chúa và Ngài không hề lệ thuộc gì vào chúng ta, mà trái lại chính chúng ta phải lệ thuộc Ngài. Ngài tạo nên chúng ta là tạo vật, luôn cần sự hiện diện của Ngài trong đời sống. Chúng ta có thể đang cố sống mà không cần Chúa, nhưng điều đó thật chỉ đưa tới thất vọng não nề.

Thế là chúng ta phải liên kết với Chúa qua sự thông hiệp, cầu nguyện mỗi ngày. Ta và Chúa trở nên đôi bạn thân thiết, tâm sự để tỏ bày mọi thứ riêng tư thầm kín. Phải biết cầu nguyện như trẻ thơ nói truyện với người mẹ. Phải phó thác hết mọi thứ. Phải tin tưởng tuyệt đối. Phải luôn ao ước được liên kết trong Ngài. Phong trào ‘THIỀN’ đang nở rộ khắp nơi, lôi kéo nhiều người tìm về niềm an bình nội tâm.

Một phương pháp giản dị ‘THIỀN TRONG CHÚA’ sẽ phần nào giúp chúng ta đạt mục đích nói trên :

-Tìm một chỗ ngồi thoải mái, yên tĩnh.

-Gạt bỏ mọi lo ra, buồn chán, lo sợ…

-Lim dim 2 mắt, úp hay ngửa 2 tay lên đầu gối.

-Tưởng tượng mình là bé thơ ngồi trong lòng mẹ.

-Không cầu xin gì, chỉ phó thác tất cả cho Chúa.

-Hít thở chậm, như mời Thánh Thần Chúa ra vào hồn.

(Nên hít thở thật sâu và giữ lưng thẳng)

-Nuôi một ý nghĩ tốt, như “Tôi là của Chúa mãi mãi”.

-Quên cái ‘tôi’, nhưng gặp thấy nó trọn vẹn trong Chúa.

(Kết quả là an vui toàn vẹn, nhờ kết hợp với Chúa)

Mỗi ngày nên tập Thiền 30 phút, trước khi đi ngủ)

Trong thực tế, những người trưởng thành về tâm linh thường ưa thích cầu nguyện thinh lặng, trong sự chiêm niệm hay nguyện gẫm. Thế là ‘Thiền trong Chúa’ sẽ là công thức cao độ giúp chúng ta đạt an bình nội tâm chân thật nhất.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, July 22, 2018

NHỚ BẠCH ĐẰNG GIANG OAI HÙNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư
“Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, Giống Lạc Hồng, giống anh hùng, Nam Bắc Trung…”

Ngô Quyền chấm dứt thời kỳ bắc thuộc:



Bấy giờ là năm 938, toàn dân Việt đang rên xiết sau 1117 năm bị Tầu đô hộ, đã cùng Ngô Quyền vùng lên chống ngoại xâm tàn bạo. Ngô tướng quân đã khôn khéo dụ quân bắc phương (nam Hán) cùng ‘tỉ thí’ hải quân tại sông Bạch Đằng. Thế là địch quân đại bại, ta giết chết tướng Hoàng Tháo, chấm dứt những tháng năm tủi hờn, và dựng lại nền độc lập cho dân Việt. ( Ngô Quyền sai quân đóng cọc gỗ ở lòng sông, rồi đem quân khiêu chiến nhử quân giặc vào sâu trận địa đã bố trí lúc thủy triều cao, rồi tung quân đánh úp xua đuổi và phá tan mọi chiến thuyền giặc, khiến chúng không có lối chạy lúc thủy triều xuống thấp ). Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui. Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng Bạch Đằng năm 938 - xứng đáng với danh hiệu là ‘vị tổ trung hưng’ của dân tộc, như lần đầu tiên đã được nêu lên trong sách ‘Việt Nam quốc sử khảo’. Lần đầu tiên đưa thủy triều vào thành một nhân tố, một lực lượng thủy chiến của trận đánh. Đây là sự sáng tạo đầu tiên mà lịch sử vàng son của dân
tộc đã ghi công lao cho Ngô Quyền. Vang vọng đến ngàn thu, không chỉ một thời mà mãi mãi chiến công và nhân thân của lịch sử đánh trận Bạch Đằng lần thứ nhất của tướng Ngô Quyền, về những sáng tạo thần kì đầu tiên, về hậu quả mở màn cho những chiến thắng lớn của hậu duệ. Tất cả đều từ trận đánh và trận thắng đầu tiên trên sông, từ đây trở thành dòng sông lịch sử. Từ đây trở thành dòng sông mà tất cả các con sông của nước Việt đều nhóm lại, hàng trăm và hàng ngàn năm sau, vẫn còn sống mãi bao thế hệ công dân nước Việt ở khắp mọi nơi.

Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân ‘mới tập họp’ của đất Việt ta. mà phá được ngàn vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy". Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, thật là một kỷ nguyên rực rỡ Lê. Một nhà sử học khác đã đánh giá thế này: "Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào cái ‘uy danh lẫm liệt’ ấy để lại. Trận Bạch Đằng chính là võ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu !".

Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.

Bạch Đằng giang ở đâu ? Thưa ở gần Hải Phòng. Chỉ là một giòng sông nhỏ (dài 32 km), nhưng thủy triều lên xuống rất khác biệt trong ngày. Tên chữ Nho là 白藤江; tên Nôm là sông Rừng), hiệu là sông Vân Cừ, là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km. Nó nằm trong hệ thống sông Thái Bình. Chỗ được du khách viếng thăm nhiều nhất là 3 ‘Bãi Cọc’, với di tích cũ vẫn còn, với hàng trăm cọc gỗ lim, gỗ sến và gỗ táu dài chừng 3 mét được cắm xuống lòng sông.

Lê Đại Hành phá quân Tống:



Thời điểm là vào năm 981. Vua nhà Tống khi đó là Tống Thái Tông xua quân xuống xâm chiếm nước ta. Đạo quân thủy do tướng địch Hầu Nhân Bảo thống lĩnh vào đến Lục Đầu Giang thì bị dụ đi vào sông Bạch Đằng. Lê Hoàn ( lên ngôi lấy hiệu là Lê đại Hành) theo vết cũ của Ngô Quyền để đập tan thủy quân bắc phương. Lần này Lê Hoàn thêm nhiếu sáng kiến: trận đánh trên sông Bạch Đằng lần này là thiên biến, vạn hóa. Từ mưu lược và cách đánh giặc của nước Việt nghìn xưa, một lần nữa được Lê Hoàn làm sôi động trên chiến trường Bạch Đằng giang thiêng liêng.

Trước tiên là những trận đánh cầm cự kéo dài để kìm giam chân giặc, vừa làm nản lòng chúng. Những chiếc cọc Bạch Đằng được dựng lại nhưng không phải để phá giặc mà là ngăn giặc. Như lời chép của sách Đại Nam nhất thống chí rằng “Lê Hoàn sai sĩ tốt đóng cọc ngăn sông”. Chỉ ngăn sông mà kết cục lại là phá tan giặc! Chiến thuyền Tống bị mai phục giữa giàn cọc ngăn sông và bị tấn công tứ bề. Hầu Nhân Bảo mất mạng trong đám loạn quân, Lưu Trừng dẫn toàn quân tháo lui ra biển. Nghe tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông Bạch Đằng, cánh quân của các phó tướng là Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tộ vội rút chạy, liền bị quân ta truy kích và diệt quá nửa, còn tướng Triệu Phục Huân bị bắt sống giữa trận. Sau đó, nhà Tống xuống nước xin hòa, và năm 986 đành công nhận Lê Hoàn là vua nước Nam.

Sau đó, Lê Hoàn cai trị ‘Đại Cồ Việt’. Vị chủ tướng của ‘trận Bạch Đằng lần thứ hai’ cũng hệt như chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ nhất, giương cao ngọn cờ chiến thắng, ca khúc khải hoàng trở về kinh đô Cổ Loa-Hoa Lư. Cởi tấm chiến bào, võ tướng khoát lại tấm hoàng bào, nhà vua ngồi vững trên ngai vàng quân chủ. Hoàng đế ‘Thiên Phúc’ Lê Hoàn ngời sáng tài năng thao lược với những chiến công trên sông Bạch Đằng lần thứ hai. Vì thế mà sống mãi trong bảng vàng bia đá, đền đài, lễ hội, sống mãi trong tâm trí nhân dân của bao thế hệ khắp nơi, mãi mãi được tôn vinh và kính thờ. Ngài cai trị nổi bật với việc phát triển nông nghiệp và còn có công đánh bại Chiêm Thành thường tới quấy nhiễu nước ta, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: "Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự”..

Hưng Đạo Vương đánh tan quân Nguyên:



Vào giữa thế kỷ 13, quân ta phải chống giặc Nguyên (Mông Cổ) cả dưới nước lẫn trên bộ, 3 lần giao chiến là 3 lần đại thắng. Vào lần đầu, năm 1258, thì nhờ có thái sư Trần thủ Độ, mà quân dân đồng lòng chống giặc: nhà vua ra khẩu hiệu cho cả nước chuẩn bị vũ khí, chuẩn bị tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tống giam sứ giả phương bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc. Khi được vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến về kháng chiến chống giặc, lúc này quân Mông Nguyên đang mạnh như vũ bão, (đã chiếm được kinh thành Thăng Long), Thái sư Trần Thủ Độ hiên ngang trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo". Câu nói ngắn gọn, dứt khoát ở tình thế nước sôi lửa bỏng giúp củng cố tinh thần chiến đấu anh dũng của nhà vua, quân và dân Đại Việt, góp phần vào chiến thắng vang dội, khiến giặc phải rút về nước. ( sau khi dùng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến ). Nhưng chỉ huy quân đội thì luôn nhờ tay Hưng Đạo vương (Trần quốc Tuấn).

Vào năm 1285, quân Nguyên lại giở trò xâm lăng, với bộ binh từ phía bắc và thủy binh từ phía nam. Dĩ nhiên Thăng Long cũng bị chiếm rất sớm. Vua tôi Việt Nam cũng phải di tản, tiêu thổ kháng chiến và kiên trì đợi cơ hội phản công, dựa theo kinh nghiệm lần trước. Cứ tuần tự nhi tiến, quân Việt đã lại đuổi được giặc phải rút về phương bắc.

Năm 1288, giặc Nguyên lại trả thù, mang nhiều binh hùng tướng mạnh xuống miền nam. Với nhiều kinh nghiệm cũ, quân ta tìm cách cướp lương thực giặc khiến chúng rất lúng túng. Riêng với chiến trận Bạch Đằng Giang, theo kinh nghiệm đại thắng cũ khởi sự từ Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương còn nâng cao tinh thần quân sĩ bằng việc chỉ gươm xuống lòng sông, thề rằng nếu không chiến thắng thì không trở về. Thế là giặc phải tan tành. (Người ta ghi nhận dịp này có võ tướng Yết Kiêu trổ tài lặn xuống sông đục đáy rất nhiều thuyền giặc.)

Đó là trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Việt Nam (khi Nguyên-Mông tấn công nước ta lần thứ ba, dưới quyền thống soái của ‘Trấn Nam Vương’ Thoát Hoan, con trai Thế Tổ Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên). ‘Trận Bạch Đằng lần thứ ba’ đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang oai hùng ngày nào, giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền và Lê Hoàn từng lập đại võ công. Cũng có nghĩa là giặc đã biết đến giòng sông ấy, đề phòng tối đa với sông ‘thiêng liêng’ ấy. Vì thế không còn con đường nào khác mà ta đành phải lại tìm chiến thắng qua giòng sông ‘định mệnh’ này khi tình thế đòi hỏi. Bây giờ là đầu tháng ba âm lịch năm 1288, toàn bộ cánh quân địch gồm 500 chiến thuyền, sau nhiều tháng trời cùng bộ binh tung hoành ngang dọc trên non sông đất nước ta (nhưng bị đánh úp tả tơi), lúc được tướng Ô Mã Nhi chỉ huy rút lui ra biển qua đường sông Bạch Đằng này, chính là thời điểm và đối tượng để quyết đánh một trận ‘nhớ đời’ của tướng Trần Hưng Đạo.

Lần này, toàn bộ chiến thuyền của giặc cũng lại tan tác trên cọc nhọn yểm dưới lòng sông. Sử viết rõ: 400 thuyền giặc bị tịch thu, các tướng giặc và tám vạn quân bị chết hay bị thương, làm nước sông đỏ ngầu. Viện binh của Thoát Hoan thất vọng nên cố rút lui (chui vào ống đồng) thì bị phục kích trên đất liền nên tổn thất nặng. Từ đó, Thoát Hoan bị phạt không được phép về kinh diện kiến vua cha! Cũng từ đó, nhà Nguyên Mông hết nhòm ngó nước Việt, và bỏ luôn cái mộng chinh phục Đông Nam Á. ( Thế giới đều hiểu chỉ có quân dân Việt Nam là chiến thắng nổi đạo quân hùng mạnh gốc Mông Cổ của nhà Nguyên.

Ngoài tài thao lược dẹp giặc trên chiến trường, Trần Hưng Đạo còn là nhà lý thuyết chiến lược quân sự. Ông đã soạn nhiều tác phẩm để lại cho đời sau học theo (Binh thư yếu lược), trong số đó gồm có: - Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn, thường gọi là Hịch Tướng Sĩ;- Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược;- Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.

Với công lao rất lớn của vị chủ tướng ‘trân Bạch Đằng lần thứ ba’, cũng như cả sự nghiệp kháng chiến giữ nước thời Trần, đã vô cùng xứng đáng (ngay sau đại võ công sông Bạch Đằng) để được triều đình phong lên ‘Đại Vương’. Nhưng với lòng dân mọi thời đại, Trần Quốc Tuấn không chỉ là Hưng Đạo đại Vương, mà còn được dự vào hàng tiên thánh và trở thành ‘đức thánh Trần’. Cùng với Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo chính là hợp thành bộ ba chủ tướng của ba đại võ công lịch sử trên chỉ một dòng sông linh thiêng có tên ‘Bạch Đằng giang’.

Riêng với Hưng Đạo Vương, tài năng kiệt xuất của ngài chính là việc nhận thức rõ dân chúng mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo ‘sức dân’ ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc và tư tưởng nòng cốt của ngài luôn là: “sức dân mới thực sự được coi như ‘rễ sâu và gốc bền’ làm nên thượng sách giữ nước”.

Xin vong linh của các ngài Ngô Quyền, Lê Hoàn và nhất là Trần hưng Đạo hộ phù cho giang sơn đất Việt.

Cũng xin 2 vị anh hùng nối gót các ngài là Lê Lợi và Nguyễn Huệ soi sáng cho đàn con lũ cháu.

Đặc biệt dẫn dắt các người lãnh đạo tại quê hương chúng ta biết đi theo vết bước của tổ tiên mà giữ nước.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Sunday, July 15, 2018

BƯỚC ĐI MỚI TÔN VINH CHỮ QUỐC NGỮ


Hoàng Hưng

Nhà báo Lưu Trọng Văn và tôi, Hoàng Hưng, vừa làm xong một việc có ý nghĩa ở Lisbon, thủ đô Bồ Đào Nha, coi như mở đầu cuộc tôn vinh Chữ Quốc Ngữ (CQN) mà một nhóm người yêu tiếng Việt khởi xướng từ tháng 3 năm nay (2018).

Ông Nguyễn Đăng Hưng, nguyên GS Đại học Liege Bỉ, nhiều năm về Việt Nam giúp đào tạo cao học, là người có sáng kiến tôn vinh Cha Alexandre de Rhodes (nguyên cớ trực tiếp là do GS bất bình với “đề án chữ Việt mới” của một vị đã từng gây ồn ào truyền thông hồi đầu năm). Sáng kiến này được ông đưa lên Facebook cá nhân và đưa ra trong buổi họp mặt các nhà văn thân hữu của mạng Văn Việt cuối tháng 3/2018.

Động thái đầu tiên của GS Nguyễn Đăng Hưng là tìm đến ngôi mộ người có công lớn trong công cuộc tạo ra Chữ Quốc Ngữ là Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes người Pháp, ở Isfahan, Iran. Ông đã kiên trì vận động để được chính quyền sở tại cho phép, và thuê làm bia “Tri ân Cha Alexandre de Rhodes, người có công lớn trong việc tạo tác Chữ Quốc Ngữ” bằng 4 thứ tiếng (Việt, Pháp, Anh, Iran). Bia sẽ được Giáo sư cùng một số chiến hữu từ Việt Nam và nước ngoài sang Isfahan dựng vào dịp 358 năm ngày mất của cụ Rhodes (5/11/1660).

GS Nguyễn Đăng Hưng dâng hoa tại mộ Cha A. de Rhodes ở Isfahan, Iran

Cùng lúc, Giáo sư kết nối với các nhà nghiên cứu và trí thức ở Huế, Quảng Nam… kiểm lại những chứng tích của buổi khai sinh Chữ Quốc Ngữ ở vùng này, quan trọng nhất là 3 ngôi mộ của các Giáo sĩ Dòng Tên ở Thanh Chiêm, một trong số đó rất có thể là mộ của Giáo sĩ Francisco de Pina, đã được giới nghiên cứu khẳng định là người mở đầu công cuộc hình thành CQN từ đầu thế kỷ 17.

Một dự án lập Khu Tưởng niệm F. de Pina đã nhanh chóng ra đời với sự hưởng ứng của một số cựu lãnh đạo địa phương và trung ương, sự đóng góp tài vật (đất đai, tiền bạc) của doanh nhân và người dân. Nhóm khởi xướng “Tôn vinh CQN” gồm các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nhà giáo… đã hình thành như thế.

Câu chuyện trở nên càng hấp dẫn, khi bà Thuỷ Tiên Nguyễn, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam- Bồ Đào Nha cho biết, sắp có cuộc Hội thảo về quan hệ Bồ Đào Nha – Việt Nam tại Hội Địa lý Lisbon (Sociedade Geografia de Lisboa) vào đầu tháng 7.

Lập tức 2 thành viên “Nhóm Tôn vinh CQN” chúng tôi đăng ký sang Lisbon dự Hội thảo

Nhà thơ Hoàng Hưng, TS Đào Hằng và nhà báo Lưu Trọng Văn tại Thư viện Ajuda, nơi lưu giữ văn bản nghiên cứu CQN đầu tiên của F. de Pina

Chiều 5/7, tại trụ sở Hội Địa lý Lisbon, đã diễn ra cuộc “Hội thảo Quốc tế về Quan hệ Bồ-Việt xưa và nay” do Hội Địa lý Lisbon và Hội Hữu nghị Việt-Bồ đồng tổ chức.

Ông Chủ tịch Hội Địa lý Lisbon khai mạc Hội thảo Quan hệ Bồ-Việt xưa và nay

Bốn báo cáo về vai trò của các giáo sĩ Bồ và việc hình thành CQN của GS Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Lưu Trọng Văn, nhà giáo Lê Nam Trung Hiếu, nhà thơ Hoàng Hưng, nhà giáo Thuỷ Tiên Nguyễn đã gây hứng khởi lớn cho cử toạ là các nhân sĩ trí thức Bồ mong muốn quốc gia này nối lại mối quan hệ vốn có từ lâu đời với xứ sở mà cha ông họ từng có giao tình, cũng như một số doanh nhân đang muốn tìm hiểu một địa chỉ làm ăn mới đầy triển vọng.

Hôm trước hội thảo, các thành viên của nhóm Tôn vinh CQN từ Việt Nam xa xôi cũng có cơ duyên được thăm thánh tích của Đức Chân Phước Andre Phú Yên, một học trò thân tín của A. de Rhodes, thờ tại Giáo đường cổ kính St Roque của Dòng Tên Bồ Đào Nha và thăm Thư viện Biblioteca da Ajuda, đọc tận mắt bản chép lại công trình đầu tiên về CQN của Cụ Pina (đầu TK 17) trong cuốn sách cổ từ TK 18: “Manuductio ad Linguam Tunckinensem” (Sổ tay về Tiếng Tonkin).

Thông tin về Hội thảo lan truyền rất nhanh về Việt Nam, lập tức chúng tôi nhận được những hứa hẹn góp sức cho những việc làm sắp tới của nhóm Tôn Vinh CQN.

Cũng từ Việt Nam, đã có thông tin về kế hoạch khai mạc một Viện (Institute) thuộc trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, bao gồm nhiều nhân sĩ trí thức Việt Nam cũng như quốc tế. Viện có mục tiêu tôn vinh những người có công xây dựng, phát triển CQN, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và con cháu người Việt trên khắp thế giới… Việc làm trước mắt của tổ chức này sẽ là xây dựng khu Tưởng niệm Cụ Pina ở Quảng Nam và hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày Vua Khải Định ra Đạo dụ bãi bỏ Khoa cử, coi như thừa nhận CQN là chữ viết chính thức của quốc gia (1919).

Đây có thể coi là bước đi mới của công cuộc tôn vinh CQN đã diễn ra từ sau Đổi Mới.

Lần đầu tiên là vụ phục hồi danh dự và công lao Alexandre de Rhodes vào năm 1993. Báo Lao Động khởi ra việc này với các bài viết của Minh Hiền, Hoàng Hưng, bác bỏ sự buộc tội bất công kéo dài mấy mươi năm đối với Giáo sĩ (những phát biểu của ông đã bị diễn giải theo định kiến chính trị tiêu cực).

Khi đó theo yêu cầu của báo Lao Động, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử, đã có bài viết quan trọng xác nhận công lao của Giáo sĩ. Ban Bí thư Đảng Cộng sản còn đề nghị báo Lao Động sưu tầm và cung cấp cho Ban tất cả tư liệu đã có về A. de Rhodes (trong việc này, chúng tôi đã được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các đồng nghiệp ở báo Công Giáo & Dân tộc). Từ đó đưa tới Hội thảo Khoa học Lịch sử về A. de Rhodes và sau đó, tên đường, bia tưởng niệm Giáo sĩ đã được phục dựng.

Bước thứ hai là việc Quỹ Phan Châu Trinh đưa những người đặt nền móng cho tiếng Việt hiện đại với CQN như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh vào danh mục các danh nhân Văn hoá được Quỹ tôn vinh hằng năm.

Nhiều người hy vọng rằng, ở bước đi mới hôm nay, đông đảo người dân Việt Nam sẽ có cơ hội biết đến và tri ân công lao của những người đặt những viên gạch đầu tiên của Lâu đài CQN – các Giáo sĩ Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral, António Barbosa, và đặc biệt Francisco de Pina.

Người ta cũng chờ đợi những động thái tích cực rõ ràng từ các cơ quan hữu trách chính thức, dẫn đến việc tôn vinh Cụ Pina một cách xứng đáng, đúng với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.

Hoàng Hưng

Nguồn: www.Boxitvn.net

Monday, July 2, 2018

HÈ VỀ

Mùa vui đùa thư giãn :



Nào chúng ta cùng tưởng tượng đang còn sống tại quê nhà, tâm tư rộn niềm vui sướng mỗi lần nghe Hè sang :

Trời hồng hồng sáng trong trong
Ngàn phượng rung nắng ngoài song …

Hè về non nước yêu yêu
Hè về nắng thông reo…


Trên đây là 2 câu mở đầu và kết thúc nhạc phẩm ‘Hè về’ của cố nhạc sĩ tiền chiến Hùng Lân. Cùng với bài ca ‘Khỏe vì nước’, người nhạc sĩ tài hoa (đi tiên phong nền tân nhạc Việt Nam) này đã làm cả nước cùng vang lời hát, đặc biệt trong bối cảnh nước nhà đang mong đợi sự dấn thân và niềm hăng say cũng như nét tươi trẻ, để cùng xây dựng tương lai.

Mùa hè về trong tiếng ve râm ran, cái nắng vàng ươm, trong những tán lá xanh và trong những cơn mưa đầu mùa mát lành. Mùa hè gợi mở những không gian bao la để ta hòa mình vào thanh âm và sắc màu tuyệt vời của cuộc sống :

Bạn ơi biết không
Hè về rồi đó
Chiều nay bạn gió
Mang nồm về đây
Ôi mới đẹp thay!
Phượng hồng mở mắt


(khuyết danh)

Trước hết chúng ta nói về chuyện nghỉ hè của đám học trò. Nghỉ là gấp sách vở lại. Không phải tới trường mỗi ngày nữa. Lũ học trò luôn khoái mùa Hè nhất trong năm. Đối với chúng, mùa hè bắt đầu khi tiếng trống trường cuối cùng vang lên. Mùa hè đầy nắng, đầy gió, chứa đựng nhiều dự định và hứa hẹn những chuyến đi xa để được khám phá bao điều hay ho. Nhưng mùa hè trong bước chân chầm chậm của cô bé nào đó khi bước ra khỏi cổng trường lại mang theo một nỗi ám ảnh ưu tư.

Ta thử đọc một đoạn văn ‘trẻ’ nói lên tâm tư thích mùa Hè nhé :

“Mỗi khi hè về là em lại háo hức vô cùng bởi đó là mùa mà em thích nhất. Những tia nắng chói chang cùng bầu trời cao vời vợi là đặc trưng của mùa hạ. Cây phượng nở hoa đỏ rực cả một góc trời như những cây đuốc khổng lồ chiếu sáng khắp nơi. Tiếng tu hú kêu vang nơi đồng quê báo hiệu một mùa quả chín. Hè về mang theo bản hòa ca của những nhạc sĩ ve sầu, luôn là thanh âm sôi động và náo nhiệt nhất. Từng cánh đồng lúa trải dài một màu vàng bát ngát chờ người nông dân đến gặt hái. Mùa hè có những cơn mưa rào trắng xóa cả đất trời chợt đến rồi lại chợt đi, những cơn gió nam mát rượi đưa em vào giấc ngủ mỗi trưa nắng gắt. Hồ sen nở rộ, những bông hoa khoe ra đài cao của mình dưới ánh sáng gọi ong bướm đến. Cây cối trong vườn đón nhận tinh hoa của đất trời để cho những trái chín mọng. Mùa hè rất đẹp, là mùa luôn mang đến cho em những kỉ niệm đáng nhớ cùng gia đình và người thân và cũng là mùa em mong đợi nhất”.

Và bây giờ là mấy vần thơ ‘con cóc’:

Cái trống trường em
Mùa Hè cũng nghỉ.
Suốt ba tháng liền
Trống nằm ngẫm nghĩ


Bài thơ vui này đã phản ánh tâm tư về những mùa Hè trong quá khứ của nhiều thế hệ : cứ sau lễ bế giảng năm học, là chúng ào về các quê nội, quê ngoại, hưởng thụ một mùa Hè tuyệt vời. Thật thì chúng được “thả rông” về ruộng đồng, thôn xóm, để tận hưởng những ngày tháng mục đồng đến mức ‘hoang dã’. Chúng chỉ cuống quýt trở lại mái trường vào ngày khai giảng đầu tháng 9, với làn da cháy nắng, gót chân còn dính bùn.

Còn bây giờ, nghỉ Hè không chỉ là đùa giỡi cho hết 3 tháng ròng rã. Phải đi vào cõi ‘vừa chơi vừa học’. Không phải học với bài vở trong lớp, nhưng học để mở mang kiến thức. Thành ra lợi ích lớn gấp hai. Các phụ huynh bắt đầu hiểu rõ và thực hiện điều này.

Ba tháng tạ từ



Nhạc sĩ danh tiếng Thanh Sơn năm nào tại quê nhà ‘chuyên trị’ về chia tay mùa hè, xa bạn nhớ thày, tạm biệt mái trường…đã đưa tên tuổi mình lên tuyệt đỉnh khi cho ra mắt nhạc bản trên đây. Đặc biệt với giọng ca Thanh Tuyền, thính giả như đồng cảm bồi hồi theo giòng nhạc : “Người ơi, thấm thoát niên học hết rồi, chúc nhau cạn lời giây phút ly bôi. Ngày mai tan trường mình không chung lối, thương nhau nhiều biết gửi về mô”…”

Ai cũng nói rằng tuổi học trò là một trong những giai đoạn đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Vì lúc đó ta có đủ thầy cô, bè bạn và cả người ta yêu đầu tiên. Đặc biệt ta và ‘bạn ấy’ đã cùng nhau trải qua biết bao điều tuyệt diệu đầu đời : cùng nhau đến trường, kèm theo những buổi học bài trong thư viện, những cái nắm tay , những nụ cười nhẹ đầy nỗi ngại ngùng, hay thậm chí cả những lần giận hờn vu vơ vì một chuyện cỏn con nào đó…Làm sao có thể quên được đây, cái gọi là tình ngây ngô thời học trò đầy khờ khạo nhưng thật ngọt ngào, dễ thương không chịu nổi ! Ấy thế mà hè tới phải chia tay. Nhất là chia tay vĩnh viễn vì hoàn cảnh gia đình phải rời xa. Mà trong trường hợp lên đại học, vào cuối học trình, chàng phải ‘xếp bút nghiên’ mà ra chiến trường bảo vệ đất nước, chuyện chia lìa cũng không kém não nùng xót xa.

Và tình yêu học trò ấy, thường cũng là tình yêu đầu, thì lúc nào cũng chóng vánh, nhưng là kí ức khó phai mờ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Thành ra, khi mùa hè tới, trường bế giảng niên học, các bạn trẻ hay bị nhói tim thổn thức lắm.

Mời bà con thưởng thức bài thơ ‘Hè về nhớ nhau’ của 1 tác giả ẩn danh :

“Bây giờ đường rộn tiếng ve,
Ngàn hoa phượng nở khi Hè vừa sang
Bâng khuâng dưới ánh nắng vàng
Tặng nhau cánh phượng ai mang đi rồi.
Ngày xưa chỉ có vậy thôi
Có ai biết được để rồi cách xa.
Mùa Hè từng đã vụt qua
Tiếc hoài cái tuổi ngọc ngà chẳng quên
Nỗi buồn không thể đặt tên
Nhẹ nhàng nhưng mãi nổi lên trong lòng
Ai còn nhớ kỷ niệm không?
Ngày xưa, một cánh phượng hồng ta trao”.


Tình học trò, tình đầu, thường khó quên như thế đó. Chả mấy ai không một lần vấn vương trong đời. Tại quê nhà, trong khung cảnh miền nhiệt đới, hễ hè về là có hoa phượng, nhắc chúng ta chuyện học đường, thày cô, bạn hữu và nhất là ‘người yêu’ xa vắng nào đó. Bao người không tránh khỏi tâm sự bồn chồn luyến tiếc. Và đó cũng là duyên cớ để bao văn thi nhạc sĩ sáng tác, trao tặng cho thế nhân những tác phẩm trữ tình tuyệt hảo.

Bồi dưỡng tinh thần và thể xác :



Nói chuyện học đường, 3 tháng hè là thời gian để các em học sinh nghỉ ngơi, thư giãn sau 9 tháng học tập căng thẳng. Đối với học sinh cuối thời trung học, kỳ nghỉ hè càng có ý nghĩa, khi các em vừa trải qua những kỳ thi quan trọng. Mùa hè, không phải gia đình nào cũng có điều kiện để tổ chức các chuyến ‘tham quan’ nghỉ mát miền xa tốn kém, hoặc ghi tên cho con em tham gia các lớp đặc biệt về ‘phát triển năng khiếu’. Đa số các em học sinh chỉ có thêm lớp ‘học hè’ bổ túc. Đối với những học sinh này, điều các em chờ đón nhất trong 3 tháng này chính là các hoạt động sinh hoạt hè tại địa phương.

Có vị đề nghị như sau : ngay từ đầu hè, phụ huynh nên ‘chủ động’ tạo chương trình và sắp xếp công việc, để cả gia đình cùng có một kỳ nghỉ ngắn ngày, nhằm thay đổi không gian sống, tạo cho trẻ sự hào hứng, vui thích. Ngoài ra có thể thực hiện một số hoạt động đơn giản khác, như tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động ‘dã ngoại’, hay để cho chúng được vui chơi qua các môn thể thao phổ thông, thể hiện sự sáng tạo của tuổi học trò. Dĩ nhiên thể xác cũng khỏe mạnh hơn.

Nói một cách tổng quát, ai cũng hiểu từ ngữ ‘nghỉ hè’ là để nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Làm việc, lao động là niềm vui mà cũng là bổn phận phải đóng góp với đồng loại, mong phát triển mọi khía cạnh của cuộc sống nhân sinh. Nhưng nếu cứ ngày đêm làm nô lệ cho công việc thì lại tai hại khôn lường. Giáo Hội Công Giáo nhắc tới chuyện chính Thiên Chúa cũng nghỉ ngơi sau 6 ngày tạo dựng vũ trụ. Đây là một tư tưởng chỉ đạo cho việc lao động con người. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội vật chất hiện nay, có quá nhiều điều ‘bất cập’ đang xảy ra : lạm dụng sức lao động thái quá. Cụ thể là không cho các nạn nhân cơ hội nghỉ ngơi cần thiết.

Học thuyết xã hội Công Giáo nhắc đi nhắc lại điểm này, kêu gọi các quốc gia cố gắng canh tân luật lao động, cho ai nấy được làm việc và nghỉ ngơi xứng đáng với phẩm giá con người.

Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II có lần lên tiếng với giới trẻ như sau : “Điều quan trọng là việc nghỉ ngơi không rơi vào trống rỗng (vì trong trường hợp đó thì không có nghỉ ngơi thực sự). Những ngày nghỉ cần phải được đan dệt bằng những cuộc gặp gỡ. Cha nghĩ đến cuộc gặp gỡ với thiên nhiên, với núi rừng, với biển cả. Con người, khi gặp gỡ thiên nhiên, sẽ tìm lại được sự bình an nội tâm. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả ý nghĩa của việc nghỉ ngơi. Còn một ý nghĩa nữa. Đó là việc gặp gỡ với Đức Kitô, và ý nghĩa này mới là điều mới mẻ. Nghỉ ngơi là mở mắt tâm hồn để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong thế giới, là mở tai nội tâm để lắng nghe lời của Ngài là chân lý… Một cách đặc biệt, Cha chúc giới trẻ các con có được cách thức nghỉ này… Cha biết là có nhiều bạn trẻ đã biết sử dụng mùa nghỉ hè vừa như thời gian thư giãn, vừa như thời gian đặc biệt để gặp gỡ Chúa, trong cộng đoàn tình nghĩa bạn bè. Cha nói điều này từ chính kinh nghiệm cá nhân của Cha, vì như giám mục và linh mục, Cha đã trải qua nhiều mùa nghỉ hè với các bạn trẻ”..

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư

Wednesday, June 13, 2018

VUI NGÀY HIỀN PHỤ

Truyền thống Gia Đình

Mới đây nhạc sĩ Ngọc Sơn tại quê nhà có sáng tác bản nhạc mang tên ‘Tình Cha’, phút chốc thành phổ thông khắp chốn (vươn lên hàng ‘Top Hit’). Mấy câu mở đầu đã đủ gây xúc động không ít:

Tình cha ấm áp như vầng thái dương
Ngọt ngào như dòng nước trôi đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan
Ân tình đậm sâu bao nhiêu.


Rồi năm ngoái ‘trang nhà’ của Giáo phận Phát Diệm có đăng một loạt bài ca tụng tình cha nhân ngày Hiền Phụ, trong đó có bài thơ ‘Lòng Cha’ với mấy câu dạo đầu khá độc đáo như sau:

Giọt máu mầm sinh nối tiếp,
Từng sợi tóc chỉ tay biết thân phận.
Sang hèn định mệnh theo vận,
Thượng Đế an bài số phận đời con.
Mối tình duyên nợ sắt son.
Cuộc đời gắn bó cha con không rời.


Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Hiện nay, Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước, kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ, đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Theo Robert J. Myers, nhà nghiên cứu lịch sử các ngày lễ tại Hoa Kỳ, thì nguồn gốc Ngày Hiền Phụ (Father's Day) đã xuất hiện từ thời La Mã cổ. Thuở xa xưa ấy, Ngày Hiền Phụ được người La Mã gọi là Parentalia, được cử hành từ ngày 12 đến 22 tháng 2 mỗi năm. Thời đó mục đích cử hành ngày Parentalia chỉ để tưởng niệm những người cha đã quá cố, không liên quan gì đến những người cha còn sống. Trong ngày lễ này, các thành viên trong gia đình nhóm họp lại và mang bánh, rượu, sữa, mật, dầu ô liu đến nghĩa trang, đặt trên phần mộ người cha quá cố đã được trang hoàng hoa nến. Kết thúc những giây phút cầu nguyện và tưởng niệm, trong nghi lễ gọi là Caristia (Tình Thương), mọi người tham dự cùng chia nhau dùng các lễ vật nói trên để chứng tỏ họ đã chu toàn trách nhiệm báo hiếu với người cha đã quá vãng…

Có học giả lại tuyên bố rằng Ngày Hiền Phụ đã có từ thời Babylon bị tàn phá. Một thanh niên tên là Elmesu đã khắc Thông điệp Ngày Hiền Phụ trên một tấm thiệp bằng đất sét gần 4.000 năm trước. Elmesu ước mong cha mình có sức khỏe tốt và sống lâu.

Ý nghĩa cao đẹp

 

Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng, vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

Thiên Chúa gầy dựng gia đình tiên khởi với ông A-dong bà E-và, với ý nghĩ ông là đầu và bà là trái tim trong một thân thể. Vai trò hệ trọng của người cha cần được trân trọng tuyệt đối, dù trong xã hội nào đi nữa.

Trong tương quan ‘Con-Cha’, ngày Hiền Phụ là ngày giúp con cái nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Do đó việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình..

Quả thực, những người Cha cũng đáng được tôn vinh như những người mẹ, vì họ đã từng dày công vun đắp, dưỡng dục cho những người con thân yêu của mình và tạo lập cơ ngơi cho gia đình. Thiếu vắng bóng dáng của người cha trong gia đình, những người con sẽ cảm thấy hụt hẫng và mất đi một chỗ dựa rất lớn nên tục ngữ có câu: "Con không cha như nhà không nóc". Những người cha dạy cho con trai biết bảo vệ, che chở cho mái ấm gia đình và dạy cho con gái sự can đảm để vượt qua trước những thử thách cam go.

Ngày lễ tri ân người thân trong gia đình như Ngày của Cha là một món quà ý nghĩa, chứa đựng tấm lòng của con cái đối với cha mình. Đây vừa là nét đẹp trong cách đối nhân xử thế, vừa là ngày gắn kết tình cảm giữa những người thân trong gia đình với nhau, giúp gia đình thêm yêu thương và hiểu nhau hơn. Mục đích của ngày này là cùng với Ngày của Mẹ, con cái có dịp thể hiện và bày tỏ tình yêu thương, kính trọng với những người cha của mình. Trên thế giới ngoài ngày Chúa Nhật thứ 3 của tháng 6 thì còn có nhiều ngày kỷ niệm dành cho cha nhưng nói chung, trong bất kỳ ngày kỷ niệm nào đều có hoa, quà tặng, bữa tối ấm cúng cùng cha và những hoạt động gia đình thân mật.

Không có niềm vui nào sánh được với nụ cười của cha mẹ khi con cái luôn ngoan ngoãn và thành đạt. Vậy thì, hãy biến bất cứ một ngày bình thường nào cũng trở thành Ngày của Cha. Hãy yêu thương, trân trọng những phút giây bên cha, bên gia đình, đừng để đến lúc nhận ra giá trị đích thực của cha, của gia đình trong cuộc sống thì mọi thứ đã muộn màng.

Với người Ky tô hữu

 

Mừng ngày Hiền Phụ, chúng ta nhớ công ơn trời biển của cha mình. Đây là dịp mỗi người con trong gia đình thể hiện lòng tôn kính, nhớ ơn công ơn dưỡng dục sinh thành. Điều này chính là thực thi điều răn Chúa dạy: “Phải thảo kính cha mẹ”. Với người tín hữu, người Cha sinh thành phần xác nhưng cũng là người Cha của Đức tin, đã thông truyền cho con cái ơn gọi làm con Chúa. Xin cho các bậc làm Cha luôn được sống an vui trong Thiên chức ‘Mục tử tại gia’, luôn trở thành gương sáng cho con cái, noi gương Thánh Giuse, người Cha thánh thiện trong gia đình Nagiarét.

Tại vài quốc gia có đông người Công Giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Thánh Giuse ( người cha trong nhà ‘Thánh gia’), ngày 19 tháng Ba hằng năm. Lời cầu tổng quát ngày đó là thế này:

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xin chúc lành cho những người cha trên thế giới, xin hướng dẫn những người cha biết yêu thương và làm gương lành cho con cái, xin biến đổi họ trở nên những người cha như chính Chúa là Cha, xin ban cho họ tràn đầy hồng ân và kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh với lòng yêu thương đích thực. Amen.

Sau đây là lời tri ân mẫu mực một người con hiếu thảo và ngoan đạo lên tiếng: ”Chúng ta hãy tự hào về cha yêu cha mình thật nhiều. Hãy dành cả tấm lòng cho người cha đáng kính, người đã dành cả tình yêu thương cho những đứa con từ khi chập chững cho tới khi trưởng thành. Xin Chúa trả công bội hậu cho cha con! Người sinh thành và dưỡng dục con. Ôi, Chúa ơi! Con tri ân Ngài lắm! Vì con sung sướng hơn nhiều anh chị em của con, những người đã không còn cha trong giây phút trọng đại này! Xin Chúa hãy làm người cha thân yêu của họ để họ mãi mãi ở lại trong Chúa mà cảm mến tình cha nồng ấm. Nhân ‘Ngày của Cha’ con cũng chúc Chúa và các thánh (là các Đấng đã làm cha) một ngày Father's Day vui vẻ! Con cũng xin chúc mừng cha thân yêu của con và tất cả các bậc làm cha”.

LM. Giuse Nguyễn Văn Thư