Sunday, December 17, 2017

VUI MÙA GIÁNG SINH

Lm. Joseph Nguyễn Văn Thư


Không vui cũng phải vui khi bà con mình đang sống trên xứ Mỹ giàu có tự do này. Mùa này cứ thử ra phố hay vào các khu mua sắm mà coi, xem chừng thiên hạ bắt mình phải cùng vui với họ. Christmas, ngày đại lễ của Chúa mà ! Truyền thống văn hóa lâu đời rồi, dù có tin Chúa hay không và dù muốn dẹp bỏ cũng chẳng dễ gì. Đương nhiên tại Việt Nam cũng như nhiều nước Á Châu, dân chúng cũng đã và đang cùng hòa nhập với thế giới mừng mùa đặc biệt này.

Người Pháp gọi là mùa Noel. Phát sinh từ cổ ngữ Nael, bắt nguồn từ chữ La-tinh Natalis : sự sinh ra đời (birth). Các cô chú Mễ gọi là Navidad. Đôi khi họ cũng dùng chữ Noe. Từ ngữ này không dính gì tới ông Noe (Anh ngữ là Noah) trong dịp đại hồng thủy trong Kinh thánh xưa.

Dân chúng cùng vui với bạn bè, thân nhân, lối xóm. Cùng kết hoa giăng đèn mừng Chúa. Gia đình xum họp đoàn tụ. Ai cũng mong giờ phút ăn tiệc đêm Giáng sinh. Dân ta quen gọi là dịp cắt bánh Réveillon. Quan trọng là cùng tới giáo đường dự lễ. Các bài thánh ca réo rắt bay bổng, cuốn hồn giáo dân lên cõi trời cao. Linh thiêng vô bờ. Trang nghiêm vô tận.

Trong niềm tin sâu xa vào ngày ‘cứu chuộc’ cao cả này, người ta hân hoan như đang sống trong bầu khí thần thánh thiên quốc. Người ta dâng lời nguyện cầu cho quốc thái dân an. Người ta tạm dẹp bỏ những lo toan trần tục. Người ta cũng phó thác mọi sự vào bàn tay quan phòng của Chúa.

Điều đặc biệt là ai cũng nghĩ tới người nghèo khổ xấu số trong dịp lễ này. Thế là các cơ quan từ thiện công tư đều ra tay gây quỹ và xin quà, nhất là cho những trẻ em thuộc gia đình nghèo. Người ta cũng tổ chức những buổi thăm viếng các cụ già cô đơn trong các viện dưỡng lão.

Tinh thần Giáng sinh được hiểu là như thế đó.


Huyền thoại ‘Ông già Noel’


Noel mừng ngày sinh của trẻ thơ Gie-Su. Thế là người ta đặc biệt dành ưu tiên đem niềm vui cho các trẻ nhỏ, nhất là tính đến chuyện tặng quà cho các em ngoan ngoãn. Rồi họ ‘chế ra’ ông già Noel ‘từ bắc cực tới trao quà’. Trẻ đi ngủ vào tối vọng Giáng sinh, mong ông già này chui vào nhà qua ống khói, rồi lẳng lặng đặt quà bên cây thông Noel. Sáng thức dạy lũ trẻ reo mừng vì những món quà giá trị.

Bà con vẫn nghe nói nguồn gốc vụ trao quà cho trẻ con vào dịp này, là do sự tích vị giám mục Nicholas xưa bên xứ Thổ nhĩ Kỳ. Ngài đã được phong thánh và kính vào ngày 6 tháng 12. Giám mục có lòng yêu mến trẻ nhỏ đặc biệt, nên được đem vào huyền thoại mùa Giáng sinh. Dân Hòa Lan gọi ngài là Sint Nicholaas, rồi biến dạng ra Sinterklass. Thời nhóm dân này làm ăn khấm khá ở vùng New York, họ phổ biến tên và sự nghiệp ngài, và rồi dân nói tiếng Anh gọi ngài là Santa Claus từ đấy.

Vào thế kỷ 19, nhà hoạt họa danh tiếng Thomas Nast đã hiện đại hóa hình ảnh ông già Noel trong một phim vui về Giáng sinh : một cụ già vui tính, râu tóc bạc phơ, má đỏ hồng, mặc bộ đồ đỏ trắng, bụng to, lưng đeo bao quà lớn, sẵn sàng trao cho lũ trẻ ngoan khắp nơi.


Quà của Chúa


Theo kinh thánh, qua lời thiên sứ ca hát trong đêm Chúa giáng trần, nhân loại sẽ được ơn an bình vững bền trong tâm trí. Qua bản thánh ca nổi tiếng Silent Night (Việt Nam quen gọi là bài ‘Đêm thánh vô cùng’ mà nhạc sĩ Hùng Lân đã khéo léo chuyển lời) cho chúng ta nghe những lời hát thấm vào hồn, diễn tả hồng ân cao cả vô song của Chúa cứu thế).

Giáng Sinh là ngày ánh sáng của Thiên Chúa đến với con người. Ánh sáng đó đã đến và soi sáng cho những ai chịu đi trong ánh sáng. Nhưng ánh sáng cũng trở thành bóng tối nếu người ta cứ nhất định quay lưng lại.

Chúa Giáng sinh đem tới niềm vui cứu độ, sự tươi mát, nỗi hy vọng bao la. Chính vì vậy, trong mùa này, dân chúng cũng trang hoàng một loại cây thông, tiên khởi được thịnh hành ở Đức. Rồi ‘cây Noel’ được sử dụng rộng rãi ở nhiều nơi. Đến năm 1820 cây này được nhóm di dân người Ðức (nay ở Pennsylvania) mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông Noel được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới vươn lên cao, tạo them ý nghĩa trong các lễ hội Giáng sinh, cũng như để đón chào năm mới.

Bài học Chúa trao gửi cho nhân loại dịp này thật là cao cả nhiệm mầu : Người diễn tả sự trân trọng của Thiên Chúa đối với con người, qua mầu nhiệm nhập thể. Giáng Sinh là mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng trong mầu nhiệm này, con người chiếm vị trí trung tâm.

Chúa Giêsu giáng sinh đem đến cho ta niềm hi vọng lớn lao. Chúa Giêsu giáng sinh đổi mới tâm hồn ta. Và Người mong chờ ta sống một đời sống mới, xứng đáng với phẩm giá cao cả do ân sủng Chúa ban. Người bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa qua sự đồng cảm lớn lao, đến độ đồng hóa mình với con người. Vì yêu thương, Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương, Chúa cùng chịu chung số phận với loài người.

Sống tinh thần Giáng Sinh

Giáng sinh là lễ của tình thương. Tình thương cần được chia sẻ cho anh em đồng loại. Thế giời đang thiếu vắng tình thương. Người ta đang thực hành văn hóa sự chết. Ích kỷ và ghét ghen đang ngự trị khắp nơi. Trước hết ta hãy dâng lại cho Chúa Hài Nhi trọn vẹn trái tim và cuộc sống. Hãy theo chân 3 vua để chân thành tới thờ lạy và tạ ơn. Hãy rao giảng văn hóa yêu thương tha thứ.

Mừng lễ Giáng sinh chúng ta chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp : Giáng sinh vui vẻ, cuộc sống an khang, gia đình hạnh phúc... Nhưng thiết tưởng, những lời chúc tốt đẹp đó sẽ vẫn mãi chỉ là những câu những chữ trên sách vở, nếu mỗi người chúng ta không làm một vài nghĩa cử yêu thương nào đó, cho chính người thân yêu của mình nơi gia đình, cho người đồng nghiệp nơi công sở, cho người bà con nơi xóm ngõ.

Giờ đây, thay vì ngồi nguyền rủa bóng đêm của hận thù, bất công và chia rẽ, mỗi người hãy thắp lên ngọn nến của yêu thương, công bằng và hiệp nhất. Có như vậy, biến cố ‘Ngôi Lời nhập thể’ mới trở nên niềm vui và niềm hạnh phúc đích thực cho tất cả và từng người chúng ta.

Nếu lễ GS năm nay là dịp để chúng ta tỏ lòng yêu mến nhau nhiều hơn, qua việc tương trợ nhau, tôn trọng nhau, nhất là tôn trọng phẩm giá và sự sống con người, ngay cả với những người thấp cổ bé miệng nhất, và nếu vào dịp lễ GS năm nay, mỗi người chúng ta tạo một món quà mang lại niềm vui cho người khác, nhất là ‘niềm vui tin mừng’ cho tha nhân, thì có lẽ chúng ta mới thực sự là những người đến viếng và hiểu lòng Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ, và chúng ta mới thực sự là người đón nhận lời mà các thiên thần hát trong đêm nay :

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho người Chúa thương.”

Friday, November 10, 2017

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

NGUYỄN THÁI LAI chuyển

Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.  Tâm tình này đạo đức và rất tình người.  Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người.  Mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra, và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.           

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau.  Tất cả đã cùng chung sống với nhau.  Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.  Họ đã ra đi, nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta.  Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm những ngày đã cùng nhau sống qua.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người quá cố, chúng ta muốn nói lên: không chỉ một mình tôi làm việc này, nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã quá cố.  Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã quá cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công.  Tôi tin phép tha tội.  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.  Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.  Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:

1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.  Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn.  Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe.  Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ làm cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.  Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cô cậu, chú bác, cô dì.  Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có, lo âu sợ sệt cũng có.  Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.  Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm người còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo.  Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã trở về với Chúa.  Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của các linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.  Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.  Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh, và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.  Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ.  Những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trong xứ đạo không quên ơn các cha.  Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.  Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có, và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.  Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.  Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp.  Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.  Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.  Họ tất cả là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ.  Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.  Xin cùng với ánh nến tình thương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.

7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi về.  Cộng đoàn được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ bao năm qua.  Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.  Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.  Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.  Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.  Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội.  Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.

9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi.  Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.  Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi, và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá.  Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.  Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.  Và tôi tâm niệm rằng:
-   Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
-   Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
-   Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.

Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long



Wednesday, October 18, 2017

CAO QUÝ TÌNH BẠN - NHU CẦU VẠN THUỞ

Lm Giuse Nguyễn Văn Thư
17/Oct/2017

Dân Việt Nam khá quen với câu truyện cổ Trung Hoa về 2 ông Bá Nha và Tử Kỳ. Cổ thuộc thời Xuân Thu Chiến Quốc lận ! Bá Nha tuy làm quan lớn, nhưng say mê âm nhạc nên học chơi khá cao về môn ‘thất huyền cầm’. Có lần vui hứng gảy khúc ‘Cao sơn lưu thủy’, nhưng tả hữu chẳng ai hiểu và khen hay, chỉ có chàng tiều phu tên Tử Kỳ tình cờ đi qua, rồi ngồi xuống tấm tắc khen, và rành mạch phân tích bản nhạc hay ở chỗ nào…Thế là cả hai hoan có dịp hỉ bên nhau đàm đạo, trao đổi tâm tình không muốn dứt, để rồi cả hai cùng xúc động khi phải chia tay. Bá Nha hẹn ngày sớm trở lại đón Tử Kỳ về phủ quan chung hưởng phú quý. Nhưng vì nhà nghèo, lại bất ngờ mắc bạo bệnh, Tử Kỳ đã chết trong cô độc. Ngày hẹn tới, Bá Nha trở về chốn cũ thì biết hung tin, bèn ôm đầu khóc rống, rồi mang đàn ra đập vào đá cho vỡ tan. Ông than khóc mấy ngày liền, tuyên bố từ nay đời sẽ vĩnh viễn không còn ai là kẻ ‘Tri Âm’. Ông đã dõng dạc lên tiếng với tả hữu :”Ta được cha mẹ ta sinh ra, nhưng trong đời, người hiểu rõ về ta thì chỉ có Tử Kỳ”.

Thế là :

“Người đi một nửa hồn tôi chết,
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”

(Hàn mạc Tử)

Bá Nha - Tử Kỳ
Tri âm . Biết tiếng nhau. Biết tâm tình nhau. Biết ruột gan nhau. Từ ‘tri âm’, ta trở thành ‘tri kỷ’. Tình bạn của con người đấy. Nó không thua nét cao quý của tình yêu chồng vợ, tình thương cha mẹ anh em, cũng như niềm cảm thông với kẻ nghèo hèn xấu số.

Nhóm người Việt tỵ nạn chúng ta ở hải ngoại, tuy đã tạm ổn định trong chuyện an cư lạc nghiệp, nhưng ít nhiều vẫn ngơ ngác trước những sinh họat, những biến cố của dân bản xứ. Vẫn thấy cáí mác ‘mũi tẹt da vàng’ của mình cứ mãi lộ ra trước thiên hạ. Đôi khi thấy quá bơ vơ lạc lõng, mỗi khi muốn chen chân vào những chỗ quá khác biệt văn hóa và truyền thống. Thế là cái mặc cảm thiểu số nổi lên. Cơ hồ mình thua kém ? Xem chừng mình là kẻ đứng ngoài lề ?

Đây là lúc chúng ta cần có bạn bè ‘đồng hương’ để đỡ nâng và ủi an. Càng lớn lên, con người càng cần có những ‘tri âm’ để lướt qua những phút giây căng thẳng muộn phiền. Nhất định ta phải coi đây là chuyện ‘sinh tử’, đặc biệt khi thấy mình hầu chắc sẽ mãi phải kéo lê cuộc sống trên xứ người.

Một khao khát từ thời thơ ấu.

Các bậc cha mẹ đều có kinh nghiệm về tâm lý con cái mình. Đa số bọn chúng vừa đến tuổi đi học đã bắt đầu thấm tình bạn (ngoài gia đình). Vào thời tuổi ‘teen’ mười mấy…thì ôi thôi, lúc nào chúng cũng tha thiết mong có bạn bè đồng trang đồng lứa bên mình. Và vì ‘ngưu tầm ngưu, mã tầm mã’, chúng cố tìm đến nhau mỗi khi có dịp, nhiều khi chểnh mảng cả việc học bài, ăn uống…Chúng hả hê khi được cùng nhau tâm sự về đủ thứ hầm bà lằng. Chúng lắng nghe chuyện của nhau, cổ vũ nhau, xem chừng muốn đem cả trái tim ra để cảm thông, chia sẻ. Chúng coi nhau như những chở che cần thiết cho đời mình.

Trong những tình bạn chân thành và bền vững, con người thấy hạnh phúc vô cùng. Họ coi đây là món quà quý giá trời ban. Họ thoải mái biểu lộ mọi thứ cảm xúc buồn vui trước mặt nhau. Khi phải tạm xa nhau, họ vẫn thường xuyên liên lạc, thăm hỏi thư từ, nhất là trong những dịp năm mới, hay sinh nhật của nhau. Tất cả để nói lên rằng họ vẫn có nhau trong tâm trí, vẫn có nhau từng ngày. Vẫn gần gũi từng phút giây. Bao kỷ niệm vẫn còn đấy…

Tình bạn quý nhất là khi ta lâm hoàn cảnh chán chường thất vọng. Khi thấy đời mình bế tắc, đi vào ngõ cụt, tối tăm. Nhiều khi cha mẹ anh chị em ruột thịt cũng không thể cảm thông. Thế là chỉ còn biết có bạn trên đời.

Bạn bè luôn cần nói thật với nhau rằng họ luôn quan tâm nhau, và cũng luôn muốn mình được quan tâm. Cần được lắng nghe nhau. Tiên vàn là phải cùng nhau tự nguyện, trợ giúp nhau vô điều kiện, không toan tính hơn thiệt, không đòi hỏi điều chi đặc biệt bất thường. Không trách móc, nhưng tôn trọng sự khác biệt của nhau. Ít ra phải có cái tấm tình rộng mở của ‘ngài quan’ Dương Lễ đối với anh bạn ‘lần khân’ Lưu Bình trong truyện tích Việt Nam. Trong Kinh thánh Cựu Ước, quý độc giả lấy làm thích thú với chi tiết tả tình bạn tuyệt vời giữa David và Jonathan, trước khi David lên làm vua. Họ thề sống chết cho nhau và bảo vệ bênh vực nhau, dù trong cảnh huống hiểm nguy nào đi nữa..

Dân Hòa Lan có câu ngạn ngữ “Đường đi tới nhà bạn bè không bao giờ quá xa”. Người Pháp hay bảo nhau rằng thời gian thường hay làm mờ nhạt tình yêu, nhưng nó lại làm đậm nét cho tình bạn chân thật. Riêng Đức Khổng Tử thì dạy ta nên tìm kiếm bạn (hội hữu), để nhờ có bạn ta mới dễ dàng nhận ra những khuyết điểm của chính mình.

Với bạn bè tri kỷ, chỉ một nụ cười, một cái xiết tay, một ánh mắt đồng cảm cũng đã là quá đủ. Dĩ nhiên càng hiểu nhau, sự trao đổi tâm tình càng đầm ấm. Cái quan trọng không phải lá cái ta nhận được, mà là cái ta cho đi, cái ta đã đóng góp cho bạn mình. Chia sẻ là sẻ chia cả cuộc sống, lúc hiện tại cũng như trong tương lai.

Tình bạn không thể mua, cũng không thể bán. Nó lừng lững đi vào hồn chúng ta, thôi thúc chúng ta có nhau lâu dài.

Tình bạn còn sâu đậm hơn nữa khi cùng đi chung những đoạn đường gian nan nguy hiểm, tỷ như bạn bè cùng chung đơn vị chiến đấu trong quân ngũ : Họ ngày đêm đối diện với bom đạn và chết chóc. Mạng sống họ luôn như treo trên sợi chỉ mỏng manh. Nếu vì định mệnh run rủi, họ sẵng sàng cùng chết bên nhau .

Thời Việt Nam Cộng hòa đã từng có những ca khúc về ‘tình lính’ rất cảm động : Huynh đệ chi binh ! Thương nhau khác chi nhân tình ! Lúc tiến, lúc thoái, lúc sướng, lúc khổ, lúc sống, lúc chết, lúc nào cũng cận kề nhau…Và rồi, sau cuộc chiến Việt Nam mới nhất, định mệnh nghiệt ngã đã xô đẩy bao ‘kẻ thua cuộc’ vào cảnh lao lý tù đày tập thể. Lúc đó tình bạn mới càng thắm thiết, bền chặt. Cũng như hoàn cảnh đã dẫn bước một số đông ‘cựu tù’ đó qua định cư tại Hoa Kỳ, họ đã tìm đến nhau để thường xuyên ôn lại những kỷ niệm vui buồn đầy vơi bên nhau : cùng cười cùng khóc với nhau bên tách cà phê, nhất là vào những buổi chiều đông lạnh giá trên xứ người.

Mình mong có bạn dài lâu vì mình thấy tình bạn luôn lợi ích và cần thiết. Bây giờ đang sống đời tha hương, bạn và tôi thấy sao ? Có ai không hề cần đến tình bạn để có kẻ tri âm, để có người tri kỷ?

Đời sống ví như ta đi trên một chuyến tàu dài : Lúc vào đời, lên tàu, ta gặp một số bạn bè lần đầu. Kế đến liên tiếp gặp bao thân hữu mới lên tàu, lần lượt đi vào đời chúng ta. Rồi có bao nhiêu đợt chia tay, ly biệt. Có bao nhiêu nước mắt với thở than. Cuối cùng đến phiên chính ta cũng phải ‘xuống tàu’ để từ giã mọi người.

Thành ra, bao lâu còn được ở trên một toa tàu nào đó, hãy trân quý bạn bè, dù họ cũng bất toàn và nhiều khuyết điểm như ta. Hãy chân thành chia sẻ, tâm sự, vì nó giúp ta biết vui sống và yêu đời hơn. Bạn bè nhắc ta chỉ có một thứ quý giá trong đời, đó là tình thương và đồng cảm. Bước chân xuống ga tàu cuối là bỏ lại tất cả, là mất hết mọi sự. Chỉ trừ những kỷ niệm thương mến vơi đầy ngày cũ.

Còn với các vị cao niên thì sao ? Càng về già, tâm sự ngập tràn tâm trí, chúng ta lại càng cần có chỗ ‘trút bầu tâm sự’. Hãy an phận tuổi già. Hãy cảm ơn đất trời vì còn được sống tới hôm nay. Hãy trân trọng tình bạn mình đã dày công xây đắp bao ngày. Chả mấy nữa mà phải vĩnh biệt nhau. Hãy tổ chức những buổi họp mặt thân hữu, dù cho đôi tay đã mỏi, cặp mắt đã mờ.

Tiện đây, xin mượn lời thơ giản dị của một thân hữu để chân thành gửi đến tất cả thế này :

“Có người bạn tôi chưa từng gặp mặt.

Có người bạn chỉ quen mới một lần.

Nhưng đã tạo vững chắc mối tình thân

Ngạc nhiên quá, có phần do duyên số.

Chia tâm sự nhỏ to dù sướng khổ.

Đời hạnh phúc vì có chỗ tri âm.

Đời bể dâu sao tránh khỏi thăng trầm

Nhưng bên bạn, mình đồng tâm vui bước !

Tiến thêm bước nữa

Sau phần tìm bạn để thăng tiến về mặt thể lý cũng như tâm lý, bà con mình, nhất là những vị chọn tôn giáo và lối sống tinh thần như những người ‘con Thiên Chúa’, cũng phải biết đồng hành với bạn bè để làm phong phú thêm đời mình bằng những ân sủng thiêng liêng do bàn tay Chúa ban xuống. Khi vui lúc buồn chúng ta cùng biết nhìn lên, an ủi hay khích lệ nhau luôn tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Đấng Tối Cao. Dĩ nhiên cần nhắc nhau cố gắng luôn tìm ‘làm lành lánh dữ’ theo giới răn Chúa đã truyền dạy. Cùng biết đón nhận những thử thách và trái ý theo mẫu gương của chính đấng Cứu chuộc nhân loại, để đền tội và thánh hóa mình và tha nhân. Liên tục bảo nhau làm gương sáng cho mọi người… Thiếu phần thiêng liêng này, tình bạn chân thành keo sơn mấy cũng sẽ không đầy đủ ý nghĩa.

Ngó lại lịch sử các thánh nhân trong Giáo Hội Công Giáo, ta thấy có nhiều vị đã dựa vào tình bạn cao quý để nên thánh. Một Phan-xi-cô thành Assisi đã rủ một nhóm bạn bè học hỏi về lối sống đạo đức qua đời nghèo khó : tất cả đã trở thành những viên gạch vững chắc xây dựng nên một phong trào tu đức mới, nhất là mở đầu cho một dòng tu danh tiếng. Một nữ lưu can đảm thành Avila tên Tê-rê-sa đã cùng bạn đồng hành là Gio-an Thánh giá rủ nhau tiến mạnh trên đường nên thánh, đồng thời ra sức canh cải cho tới thành công đời sống tu của dòng Cát-Minh. Rồi một Phan-xi-cô Xavier đã biết ‘đánh bạn’ cùng người đồng môn Y-Nhã Loyola, để trao đổi những tư tưởng cao sâu tốt đẹp nhất về đời thiêng liêng, đã thực sự nên thánh và còn được tuyên phong là bổn mạng các nhà truyền giáo.

Ráng ‘tiến thêm bước nữa’ đi bạn nhé. Đời sống chúng ta sẽ đầy ắp niềm vui. Ngày tháng sẽ tràn ngập an bình. Để rồi tới ngày phải nhắm mắt lìa đời, chúng ta có thể mỉm cười nắm tay các bạn hữu mà nói lời tạm biệt. Chờ sẽ cùng tái ngộ trên cõi Thiên Đàng mai sau. Lúc đó tâm tư ta sẽ thấy mãn nguyện, khi biết đời mình đã có ý nghĩa và thật đáng sống. Mong lắm thay !

Wednesday, October 11, 2017

TRUYỆN DÀI CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP


Lm. Giuse Nguyễn Văn Thư

07/Oct/2017

Vào đề :

Chúng ta bảo là truyện dài vì năm tháng đã dài từ ngày ngài lìa trần. Danh sách những người lên tiếng làm nhân chứng về ngài cũng dài lắm. Mà khi đọc báo chí ta thấy những trang mang bảng tạ ơn ngài cũng thật dài. Và hiện nay, trong tiến trình xin phong thánh, hàng trăm hàng ngàn người đang ngóng chờ tin vui.

Đôi hàng tiểu sử : Ngài sinh đúng ngày tết dương lịch ngày 1 tháng 1 năm 1897, tại Cồn Phước, Chợ Mới, An Giang. Cha mẹ lấy tên Thánh Phan xi cô Xavier đặt cho con. Mẹ ngài mất lúc ngài mới lên 7, sau đó theo cha lên xứ Campuchia làm ăn sinh sống, rồi cha ngài tục huyền ngay năm sau.

Lúc nhỏ đã tỏ ra hiền lành, nên cha ngài trao con cho cha Phê rô Tiền đưa vào chủng viện Cù lao Giêng chuẩn bị tu học làm Linh mục. Sau đó lên Nam Vang theo đại chủng viện, rồi chịu chức năm 1924. Công tác đầu tiên là phục vụ với tư cách cha phó tại họ đạo Hố Trư (cũng ở Campuchia). Năm 1927 ngài về Việt Nam dạy chủng viện, rồi ra coi họ đạo Tắc Sậy từ năm 1930. Ngài hăng say truyền giáo, lập thêm khá nhiều họ đạo nhánh.

Vào năm 1945 và 1946, chiến tranh loạn lạc khắp nơi, nên bề trên và bạn bè khuyên ngài tạm lánh về chỗ an toàn, nhưng ngài nhất định ở lại sống chết với đoàn chiên. Ở hải ngoại, nhiều người làm chứng rằng vào ngày 12 tháng 3 năm 1946, Việt Minh lùa cha Diệp và 70 giáo dân nhốt vào một lẫm lúa, rồi toan châm lửa thiêu sống tất cả. Cha Diệp tha thiết xin tha cho mọi người, riêng mình chịu hy sinh…Thế là ngài bị đem đi giết ngay đêm đó (theo nhân chứng Ngô minh Quang, lúc đó đang ở Khúc Tréo và lên 21 tuổi, cha bị chém 2 nhát : 1 nhát phía trên sọ đầu, 1 nhát phía sau ót nhưng đầu chưa đứt lìa). Tuy nhiên ở trong nước bây giờ thì lại có những luận cứ khác, cho rằng ngài bị giết vì chuyện tranh chấp giữa các giáo phái [ đưa thêm chi tiết là 2 người Nhật (lúc đó đã bị giải giới sau khi thất trận, và đang nhập vào mặt trận Cao Đài, tố cáo cha thân Pháp ) trực tiếp can dự việc sát hại cha !]

Chuyện tìm ra xác cha cũng được tả lại khá ly kỳ lạ lùng, như được ơn trên soi sáng hướng dẫn để giáo dân vớt được xác ngài từ dưới ao, rồi đem về chôn tạm tại nhà thờ họ đạo ‘Khúc Tréo’. 22 năm làm Linh mục. 16 năm coi giáo xứ Tắc Sậy.

Hãy nghe một đoạn sách tả lại như sau :

Mộ cha ngày nay sau khi được cải táng lần 3
“Những người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về ‘báo mộng’ cho các vị chức sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái ao nhà ông giáo Sự. Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã bị chém vào đầu, kèm với một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai. Thân xác ngài thì bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu nguyện, và nét mặt ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi. Các vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo, và ông nghĩ làm thế kín đáo hơn đưa ngay về Tắc Sậy). Hăm ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải táng, dời về Nhà thờ Tắc Sậy nay”.

Sự lạ đếm không xuể.

Người viết chỉ dám dùng chữ ‘sự lạ’, chứ chưa viết là ‘phép lạ’ theo như truyền thống phải được giáo hội công nhận. Dĩ nhiên vì khắp nơi rộ lên long sùng kính cha, xuyên qua những tin đồn trăm ngàn sự lạ lớn nhỏ, ngài được Chúa thực hiện khi có người chạy đến xin ngài bầu cử cho. Người ta đồn thổi nhau về một ‘sự cố’ xảy ra từ năm 1977, một bà già ngoại giáo rất nghèo sống ở Bảo Lộc (Lâm Đông) đang nằm chờ chết vì ung thư bao tử. Bỗng dưng có một Linh mục Công Giáo tình cờ ghé qua nhà, trao cho mấy viên thuốc rồi vội ra đi, sau khi nói rằng mình đang coi xứ Tắc Sậy, Bặc Liêu. Bất ngờ hết bệnh, bà nhờ con cháu thuê xe xuống tạ ơn cha sở đã chữa mình. Vừa xuống xe, tạt qua mộ cha (cải táng lần 2) thấy hình trên bia mộ giống hệt vị Linh mục cho thuốc mình hôm trước. Bà liền la lớn tiếng cho mọi người nghe, rồi kể rành mạch về ‘sự lạ’ được khỏi bệnh.

Trong nước, rồi hải ngoại, bà con ùn ùn kéo xuống nhà thờ Tắc Sậy hàng ngày. Hình như ai có lòng tin cũng được phần nào như ý toại nguyện. Thiên hạ gọi nhà thờ này là ‘Chốn du lịch tâm linh’.

Dĩ nhiên tóa Giám mục Cần Thơ không thể cứ yên lặng mãi. Các viên chức bắt đầu thu thập những câu truyện từ các nhân chứng và chuẩn bị báo cáo về tóa thánh. Tới năm 2014 thì hồ sơ được xét là xứng đáng tiến hành, và cha Diệp được gọi là ‘Đầy tớ Chúa’, bước sơ khởi cho chuyện phong thánh tương lai.

Nhà thờ Tắc Sậy bây giờ
Sau một dịp từ Mỹ về hành hương nhà thờ Tắc Sậy và tạ ơn cha Diệp, có người đã viết lên mấy câu thơ này :
 “Tắc Sậy xứ đạo của cha,

Miền nam nước Việt tuy xa mà gần,

Mộ cha linh hiển vô ngần,

Giáo lương đều muốn một lần viếng thăm.

Nào ai đau khổ tháng năm,

Niềm vui sẽ đến gấp trăm gấp ngàn,

Những người gặp bước gian nan,

Cha đều chăm sóc lo toan mọi bề”.

Ta học gì và xin gì với cha Diệp ?

Tích truyện rõ ràng và rất thật về cha Phan-xi-cô Trương bửu Diệp nhất định đòi chúng ta phải hết lòng bái phục một con người thánh thiện can đảm phi thường. Một chủ chiên liều mạng sống vì đoàn chiên, theo đúng mẫu mực Chúa Ky tô. Một mục tử thực hành chức vụ lãnh đạo chỉ để phục vụ những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội.

Lúc còn sống, cha Diệp dành nhiều thì giờ đi thăm và giúp đỡ lương dân, cho nên ngày này số người ngoài Công Giáo được cha cầu Chúa cho nhiều ơn lạ, hơn cả với người trong đạo. Dó là một bài học lớn cho tất cả chúng ta. Cần hướng về bao linh hồn còn chưa được ơn đón nhận đức tin.

Cha Diệp còn nêu tấm gương sống khó nghèo cho bản thân mình, nhưng luôn tìm chăm sóc lo lắng cho tha nhân. Ngài luôn là hiện thân của người bạn chất phác, dễ dãi, rộng lượng và rất chân thành gần gũi không trừ một ai.

Có người cũng nêu lên ý kiến về ‘Tình người’ nơi cha Diệp thế này :

“Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của mình để cứu đoàn chiên. Sau khi qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này người kia, “ai xin thì cũng đều được”. Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu cũ xưa của ngài thành nơi khang trang, hiện đại hàng đầu. Tất cả những việc đó đều là do tình người. Đối với tôi, bất cứ cái gì thuộc về tình người đều đáng ca ngợi”.

Thế là chúng ta cùng tạ ơn Chúa về cha Diệp. Cùng chắp tay xin Chúa, nhờ công nghiệp và gương sáng của cha, ban cho Giáo hội Mẹ Việt Nam được an bình, được mau đón nhận nhiều chiên lạc về cùng gia đình con Chúa. Cho mọi tầng lớp giáo dân hăng say làm việc tông đồ, nhất là yêu mến kẻ nghèo hèn đơn độc, như cha Diệp đã làm gương xưa.

Bản thân và gia đình chúng ta phải thề hứa dứt khoát sẽ nhìn vào hình ảnh cha Diệp mà giữ đạo và sống đạo cho tới cùng.

Tuesday, April 11, 2017

PHIM THÁNH GIOAN LASAN - QUAN THÀY CÁC NHÀ GIÁO DỤC

Ngày 07 tháng 4 hằng năm, Phụng vụ Giáo Hội mừng lễ thánh Gioan La San (1651 - 1719), Đấng Sáng Lập Dòng Các Sư Huynh Trường Kitô Giáo. Năm 2019, nhân kỷ niệm 300 năm ngày mất của Thánh Gioan La San, Dòng La San trên toàn thế giới sẽ tổ chức năm Ơn Gọi La San. Nhân ngày lễ thánh Gioan La San hôm nay và cũng để chuẩn bị cho sự kiện trọng đại về năm Ơn Gọi La San, chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý vị, cách riêng là các bạn trẻ đang có ước muốn tìm hiểu và dấn thân phục vụ sứ mạng giáo dục giới trẻ nghèo qua Ơn Gọi La San, bộ phim về thánh Gioan La San - Quan Thầy Các Nhà Giáo Dục.
Dưới đây là một vài thông tin liên quan về bộ phim này và kính chúc quý vị cùng các bạn có những giây phút thưởng thức phim thú vị!


Vài thông tin về bộ phim này:
Phim được phát hành đầu tiên năm 1962 tại Tây Ban Nha, tựa El Señor de La Salle (Ngài La San), kịch bản: Luis Loucas. Đến năm 1976 thì được phát hành ở Mỹ với tựa đề Who are My Own.

Phim ta đang xem là sản phẩm xuất bản lại vào tháng 3 năm 2010, qua sự hợp tác giữa Ignatius Press và Christian Brothers Conference, văn phòng của phân vùng La San Bắc Mỹ (RELAN). Ignatius Press đã làm cả một “tủ phim” chuyên về tất cả các vị thánh của Giáo hội.

Nhân vật Gioan La San trong bộ phim này do Mel Ferrer, một nam tài tử nổi tiếng trong bộ phim Chiến tranh và Hòa Bình (# 1969), thủ vai. Ông qua đời năm 2008 lúc được 80 tuổi. Điều thú vị là dù nhận được nhiều lời mời vào vai diễn các vị thánh khác nữa, nhưng Mel Ferrer chỉ nhận đóng vai về cha Gioan La San mà thôi.



(Theo TỈNH DÒNG LA SAN VIỆT NAM)



Saturday, February 25, 2017

ĐOÀN TRỐNG LASAN

HỘI TRỐNG DIÊN HỒNG - TIẾNG TRỐNG MÊ LINH - TRỐNG TRẬN TÂY SƠN




LASAN ĐỨNG LÊN ĐÁP LỜI SÔNG NÚI
Giao Chỉ, San Jose.
 

Tiếng trống ngày xưa.


Các bạn ở San Jose chắc hẳn cũng đã từng nghe nói đến tiếng trống La San. Tôi cũng đã một đôi lần xem các em đánh trống. Hấp dẫn lắm. Cả một thời niên thiếu tôi cũng đã từng lê la đi với đám múa sư tử. Khi cầm đầu, lúc làm đuôi và nhiều khi đánh trống. Sư tử hí cầu, sư tử ngủ, sư tử ăn hàng. Nhà cháu đánh trống cũng tạm được. Tiếng trống sư tử trẻ thơ chuyển qua trống ếch của đoàn thiếu nhi Kim Đồng thời kháng chiến dường như vẫn còn vang vọng sau hơn 70 năm. Vì vậy cô Cindy con gái bác Đôn cho 2 vé đi coi đoàn văn nghệ La San trình diễn ở sân khấu cộng đồng Mễ là vợ chồng tôi đi ngay. Nhà tôi nói trước. Nếu không hay là ta về sớm. Hóa ra nàng ở lại đến sau cùng.  

Tiếng trống ngày nay.


Khi chúng tôi đến nơi thì đã khai mạc được vài phút. Bên ngoài vắng tanh, bên trong đã nghe tiếng trống ầm ỳ. Có hai bố con khán giả cùng đi muộn hỏi thăm. Có phải đây là văn nghệ của Frère Phong không. Tôi không biết chắc nhưng cũng trả lời ngay. Đúng rồi. Vào đi. Lúc đó mới chợt nhớ là thiên hạ có nói đến sư huynh tên Phong vốn là người gây dựng nên đoàn văn nghệ Trẻ La San. Chúng tôi ngồi xem đầy đủ đầu đuôi vở ca nhạc kịch lịch sử đời nhà Trần chống quân Mông Cổ. Tựa đề là Lý Trần Việt. Đây là một ca nhạc kịch gồm có 10 màn rất liên tục. Xử dụng hàng trăm các em học sinh hay sinh viên La San. Xem chừng có cả phụ huynh. Quần áo hết sức độc đáo với hình ảnh Á Châu và Kinh Thượng. Tại sao lại có người Thượng. Câu chuyện ghi lại lịch sử đẫm máu giữa 2 họ Lý Trần. Sử chép rằng. Nhà Trần tiêu diệt nhà Lý để lên ngôi. Một gia đình họ Lý trốn lên cao nguyên giả là dân Thượng để lập nghiệp và trở thành tù trưởng. Trước họa xâm lăng, gia đình họ Lý quên thù nhà để cùng họ Trần cứu nước. Đó là ý nghĩa chính của kịch bản. Các MC lần lượt ra kể lại lịch sử để chuyển cảnh. Tất cả các bản hùng ca và tình ca ngày xưa từ Hội Nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang, Sơn nữ ca v.v. đều được xử dụng cho các màn vũ cùng với dàn trống vẫn là âm thanh chính cho toàn bộ vở kịch. Nếu tôi không nhầm thì tất cả các diễn viên từ đối thoại đến lời ca đều đã được thu trước. Đúng như vậy, nghệ thuật lồng tiếng đã xuất sắc đến nỗi không ai nhận ra và không hề có lúc nào lỡ bộ. Khó khăn nhất là đối thoại. Các em diễn xuất phải thuộc bài thật giỏi và chắc đã diễn thử nhiều lần. Tôi phải ngợi khen nhà tổ chức hết sức công phu sắp xếp sân khấu từng chi tiết để không bị sai lạc với 10 màn.Từ y phục đến các vũ điệu thay phiên, xen kẽ ra vào liên tiếp khiến khán giả nhiều lúc theo không kịp.

Văn nghệ La San.


Nhưng tuyệt vời hơn hết là La San đã xử dụng toàn bộ các em học sinh không phân biệt lớn hay nhỏ, ốm hay mập, cao hãy thấp. Tất cả mọi học sinh đủ mọi kich thước với áo quần rực rỡ muôn màu và tươi cười, hăng hái nhiệt thành đã đều trở thành các vũ công lúc uyển chuyển dịu dàng lúc dũng mãnh quyết liệt. Các em đã trình diễn hết mình, say mê sân khấu, để tinh thần và thân thể hòa nhịp vào kịch bản, hòa nhập với vũ đoàn như bay vào một thế giới khác giữa âm thanh, với tiếng trống dưới ánh đèn trước sự chiêm ngưỡng của khán giả hưởng ứng đầy rap. Một điều quan trọng hơn hết là vở nhạc kịch đã đem cho khản giả học lại bài học lịch sử mà chính các em diễn viên cũng ghi nhận được câu chuyện xưa của thế hệ tiền nhân anh hùng.

Tinh thần quốc gia.


Sáng kiến độc đáo nhất là ban tổ chức dành màn hát quốc ca sau cùng dưới đề tài Đáp lời sông núi. Đây là một thử thách quan trọng vì thông thường khán giả vô tâm hay bỏ ra về sớm thì sẽ không có dịp tham dự công việc Đứng lên khi sông núi cất tiếng gọi. Nhưng khán giả lần này nghiêm chỉnh ở lại đến phút chót rất nhiệt tình cầm hàng trăm lá cờ đứng lên để cổ võ cho toàn bộ vua quan quân lính đứng đầy sân khấu. Từ đầu đến cuối tôi cũng có ý chờ xem có ai là đạo diễn chính, ai là VIP lên mở đầu hãy chấm dứt. Tuyệt nhiên không có ai cả. Các em thay phiền mở đầu và cũng thay phiên cảm ơn. La San này quả hiện đang ở một thế giới khác. Thế giới cộng đồng của chúng tôi bên ngoài làm ăn ngon lành như thế thì cũng phải giới thiệu tràng giang đại hải các VIP hiện diện mất một thời gian. Sau đó còn nhiều các nhà tai mắt lên giảng giải và xin tràng pháo tay rất nhiều lần. Chán lắm. Các em La San hôm nay bằng những tiếng trống hùng tráng từ đời Trần, các em đã qua mặt công đồng chúng tôi để gửi thẳng thông điệp đến ngày mai. Không phải là kịch sĩ chuyên nghiệp, không phải là tài tử được chọn lựa ngoại hình với chân dài tới nách, không hề có xiêm y áo mỏng buông hờn tủi. Các em không phải là tài tử xa cách. Đây chính là con cháu trong nhà với công phu luyện tập hợp đoàn đem đến cho thiên hạ buổi trình diễn tha thiết tình yêu quê hương dưới ngọn cờ vàng. Hình như bởi vì có những người như một sư huynh vô danh, làm rất nhiều mà không lên sân khấu mà cũng chẳng có tên trên tờ quảng cáo.                         

Niềm mong ước. 


Dù vậy xem ra ở đây 90 % khán giả là thành viên công giáo. Con số như vậy hơi giới hạn. Nếu có cơ hội và khả năng bao dàn, chẳng cần đi đâu xa, tôi mời toàn ban La San xuống núi vào CPA San Jose 3000 chỗ trình diễn. Chỉ cần vé đồng hạng $10 cho cộng đồng của tôi có dịp Đáp lời sông núi.  Xin có ý kiến sau cùng. Khi ra về, tôi được một em La San cho DVD Tôi yêu quê tôi, thu buổi trình diễn mấy năm trước. Đem về coi liền. Rất xuất sắc, nhưng cũng rất đáng tiếc. Suốt 2 đĩa DVD không hề có lúc nào chiếu hình ảnh về sự hưởng ứng của khán giả. Quý vị xem trên Youtube các đoạn phim sân khấu Mỹ. Họ dùng rất nhiều máy ghi nhận phản ứng của khán giả. Có khi còn ý nghĩa và hấp dẫn như diễn viên trên sân khấu. Đoạn diễn xuất quá hay, thu được giọt nước mắt khán giả là chuyện viên có thưởng. Xin các nhà quay phim và làm phim. Phải nhớ rằng một trăm diễn viên diễn xuất trên sân khấu là có cả ngàn khán giả cũng diễn xuất dưới hội trường. Những cặp mắt đam mê, những nét mặt đau thương theo kịch bản và những tràng cười hả hê của người coi sẽ làm cho cuốn DVD sống động hơn rất nhiều. Xin nhớ lần sau. Chương trình xem đáng đồng tiền. Lại là vé mời, niềm vui gấp đôi. 

Cảm ơn La San.     

Monday, January 16, 2017

ĐỨC MINH XƯA

NGUYỄN THANH THỦY

Đây là những hình ảnh của các bạn Đức Minh Đệ Tứ 1965-66. Hình ảnh từ lúc bé cắp sách đến trường, lớn hơn chút nữa, hình chụp với các Frère năm Đệ Tứ. Đến bây giờ đã có nhiều mái tóc đã bạc phơ và phân tán đi nhiều nơi xa xôi. Ước ao là có một ngày được cùng ngồi lại với nhau chuyện trò, "Yesterday, Once more".

TRUYỀN THỐNG LASAN ĐỨC MINH

NGUYỄN ĐÌNH MINH - NGUYỄN THANH THỦY


KỶ NIỆM 88 NĂM THÀNH LẬP TRƯỜNG

Sunday, January 15, 2017

LỊCH SỬ TRƯỜNG LASAN ĐỨC MINH

Trường thánh Michel tại Tân Định
(Tiền thân của La san Đức Minh)
Ngày 1 tháng Ba năm 1902
Bản khế ước liên quan đến trường Saint Michel Tân Định.
* Giữa đức cha Lucien Mossard , giám mục hiệu tòa Médée, đại diện tông tòa hành xử nhân danh Hội thừa sai địa phận Tây Đàng Trong
* Và Sư huynh Ivarch Louis, giám tỉnh miền Đông Dương, hành xử nhân danh Dòng các sư huynh trường Ki-tô, trụ sở tại 27 đường Oudinot, Paris.
Những qui ước được ấn định như sau :
Điều I : Trường thánh Michel (Saint Michel), sở hữu của Hội thừa sai và dưới danh nghĩa Hội này nó được cấp phép, được đặt dưới quyền điều hành tối cao của vị đại diện tông tòa.
Điều 2 : Qua bản hợp đồng này, Hội thừa sai trao lại cho các sư huynh trường Ki-tô, khu đất và các khu nhà Tiểu chủng viện cũ của Tân Định, bao gồm cô nhi viện, công trình phục vụ trẻ câm điếc và nhà ngoại trú, theo các điều khoản sau đây :
Hội thừa sai duy trì quyền sở hữu trên bất động sản này. Các sư huynh có trách nhiệm thanh toán các thuế má, gánh chịu các phí tổn (trong vòng 17 năm, các sh mỗi năm phải gởi 24 $ về toà giám mục để xin dâng 12 thánh lễ cầu nguyện cho các ân nhân), chi phí về bảo trì nhà cửa, bàn ghế, các dụng cụ, vv… mà họ phải tự mua sắm và cũng vì thế, chúng phải thuộc quyền chi phối của họ.
Các sư huynh cung ứng nhân sự cần thiết để trường hoạt động tốt, hợp theo những gì đang diễn ra trong các trường học thuộc loại này mà Nhà dòng đã tiếp nhận. Trong trường hợp họ không đủ số sư huynh để phục vụ và phải nhờ đến sự tiếp tay của các thầy giáo bên đời, họ có bổn phận chi trả toàn bộ lương hướng cho các thầy này. Đổi lại, khởi từ ngày 01 tháng Ba năm 1902, họ được toàn quyền thừa hưởng mọi nguồn lợi xuất phát từ ngôi trường này, trên bất cứ phương diện nào.
Điều 3 : Khi gặp những trở ngại lớn, sh hiệu trưởng phải đến xin ý kiến của vị đại diện tông tòa ; ngài sẽ vui lòng dùng quyền uy cao trọng của mình để hỗ trợ
Thứ nhất là bản báo cáo hằng năm cho hội đồng cố vấn thuộc địa để duy trì được những trợ cấp hàng năm hiện hành, và nếu có thể được, những yêu cầu trợ cấp mới dành cho những trẻ câm điếc và những cô nhi Việt Nam.
Thứ hai là bản thỉnh nguyện xin trợ giúp mà các sư huynh dự tính đề nghị với Hội đồng đặc trách công tác Thánh nhi (Sainte Enfance) nhằm nuôi dưỡng các cô nhi.
Hội thừa sai sẽ góp sức cộng tác với các sư huynh trong việc xây dựng gia đình hoặc tìm công ăn việc làm cho các trẻ câm điếc khi chúng đến tuổi trưởng thành (20 tuổi).
Điều 4 : Trong trường hợp cần phải xây cất mới hay cần sửa chữa đại tu, các sư huynh bàn thảo với vị đại diện tông tòa về sự thiết yếu thật sự của chúng, và sau sự thỏa thuận tiên khởi này, các sư huynh sẽ lo quyết toán các chi phí. Trong mọi trường hợp, nếu Hội thừa sai đi đến quyết định sa thải họ, Hội phải đền bù những chi phí phát xuất từ những xây cất mới, chi phí này được tính theo giá trị các khu nhà vào thời điểm họ phải ra đi. Điều này cũng được áp dụng đối với những sửa chữa lớn, có giá trị nhiều hơn năm trăm đồng (500 $ ). Nếu các sư huynh tự ý rút lui vì bất cứ lý do nào khác, họ không được quyền đòi hỏi gì cả.
Điều 5 : Trong nhà trường, người ta sẽ thiết lập một nhà nguyện tư, có đặt Mình Thánh Chúa. Thánh lễ sẽ được cử hành tại đây mỗi tuần một lần nếu có thể được và vào một ngày nhất định được thỏa thuận trước giữa vị thừa sai chịu trách nhiệm lo cho cộng đoàn dân Chúa tại Tân Định và sư huynh hiệu trưởng.
Vị đại diện tông tòa quan tâm hết mình về việc hướng dẫn thiêng liêng cho các sư huynh, bảo đảm cho họ có một cha giải tội thường nhật và ngoại lệ.
Để phụ trách việc dạy giáo lý và giải tội cho các học sinh, sư huynh hiệu trưởng sẽ thỏa thuận trước với cha sở họ đạo.
Điều 6 : Trong việc dạy tiếng Việt và tiếng Pháp, các sư huynh sẽ áp dụng phương pháp của Nhà dòng họ, đồng thời cũng gắng kết hợp với chương trình hiện hành trong xứ.
Đối với công tác dạy nghề, trong chừng mực có thể được, các sư huynh huấn luyện cho các trẻ câm điếc những nghề thông dụng tại địa phương.
Năm học kéo dài khoảng mười tháng. Các kỳ nghỉ lớn rơi vào tháng giêng và tháng hai (Tết). Vào tháng Bảy sẽ có 15 ngày nghỉ. Trong những ngày nghỉ, các trẻ mồ côi nội trú sẽ lưu lại tại trường dưới sự chăm sóc của các sư huynh.
Điều 7 : Trong trường hợp trợ cấp của nhà nước thuộc địa bị cắt bỏ, trường câm điếc sẽ được bảo lưu trong chừng mực có thể được, với những cứu trợ của hội Thánh Nhi và những tặng phẩm ngẫu nhiên. Hội thừa sai cũng như các sư huynh không đảm bảo duy trì công cuộc từ thiện này bằng lợi tức riêng của họ.
Điều 8 : Nếu Hội thừa sai muốn cho các sư huynh thôi việc hoặc nếu những vị này bị bắt buộc phải rút lui, một thông báo sẽ phải được gởi đến hai bên trước thời hạn là sáu tháng.
Bản khế ước này là tạm thời. Nó sẽ chỉ là tối hậu đối với hai bên ký kết sau một thời gian thử nghiệm là hai năm , tính từ ngày 01 tháng Ba năm 1902.
Làm tại Sài Gòn, với ba bản văn và được ký nhận.


Giám tỉnh dòng La San                                  Đại diện tông tòa
Sh Ivarch Louis                                        GM. Lucien Mossard
 

                                                                          *
                                                     *    *
Đầu năm 1923, Cha sở Delignon họ Tân Định, muốn mở một trường học và mời các Sư Huynh trường Taberd về điều khiển. Ngài kêu gọi sự ủng hộ của giáo dân, và lời của Ngài đã được đáp ứng cách mau chóng và nồng nhiệt.
Vào ngày 18-11-1923, Đức Giám mục Quinton, địa phận Saigon đã chủ tọa lễ khánh thành long trọng ngôi trường mới, tên là Ecole Saint Louis De Gonzague, trường ốc tất cả gồm có 6 phòng : 3 phòng tầng trệt và 3 phòng lầu trên.


PHÁT TRIỂN

Nhà trường bắt đầu khai giảng với 4 lớp tiểu học và 120 học sinh. Từ đó số lớp cũng như số học sinh gia tăng không ngừng.
Ba năm sau, là năm 1926, trường mở thêm lớp Nhứt (lớp 5 ngày nay). Cuối năm kết quả kỳ thi bằng tiểu học đầu tiên là 12/14 (83,71%)


Năm 1931, số học sinh lên tới 320.
Năm 1945 vì tình hình bất ổn nên nhà trường tạm ngưng hoạt động. Tân Định hồi đó là ngoại ô Saigon, yên tĩnh và an ninh bảo đảm hơn nên các sư huynh Taberd Saigon, với sự thỏa thuận của Cha Sở đã đến tạm cư gần một năm tại đây.
Năm 1946, khi sinh hoạt trở lại bình thường, học sinh ồ ạt kéo về trường cũ.
Năm 1948, trường Louis De Gonzague mừng Lễ Kỷ niệm 25 năm thành lập. Năm đó số học sinh lên tới 700.
Từ năm 1947 đến 1951, trường do Sư huynh Emile phụ trách, Thời gian này các Sư huynh vẫn thuộc Cộng đoàn Taberd, chỉ đến giảng dạy rồi về.
Tháng 8 - 1951, do quyết định của ban lãnh đạo Tỉnh dòng, các Sư huynh làm việc tại Tân định thành lập một Cộng đoàn chính thức với Huynh trưởng (kiệm Hiệu trưởng) đầu tiên là Sư huynh Jourdain de Saxe. Cộng đoàn gồm các Sư huynh Jourdain, Aimé, Hubert, Alexis và Charles. Ngày 09 tháng 9 năm đó trường hân hạnh tiếp đón Giám tỉnh người Việt đầu tiên đó là Sư huynh Cyprien Gẫm.

Năm 1952, trường được đổi tên là LASAN ĐỨC MINH, để tưởng niệm đến Thánh Tổ phụ lập Dòng và Á Thánh Tử đạo Phillipe Minh. Năm đó khánh thành ban trung học.
Theo lời kể từ Sư huynh Jourdain, chính ngài đã đặt tên trường là Đức Minh để dâng kính Thánh Tử đạo Philiphê Phan Văn Minh, là một học trò xuất sắc, cũng là một cộng tác viên đắc lực của Giám mục Taberd trong công cuộc soạn thảo những bản Tự vị Pháp-Việt đầu tiên
Năm 1961, kết quả trung học đệ nhất cấp lần đầu tiên là 38/48 (79%) tỷ lệ khá cao so với 30% tỷ lệ trung bình ở Saigon.
Với 110 học sinh đậu bằng Tiểu học, 38/48 đậu bằng Trung học đệ nhứt cấp. Kết quả này được coi là tốt nhất từ khi trường áp du5nh chương trình Việt và đây cũng là một trong những kết quả cao nhất của Đô thành Sài gòn.

Về phương tiện cơ sở vật chất, Đức Minh cũng tiến hành sửa chữa, tu bổ hay làm mới nhiều hạng mục. Nhờ sự đoàn kết phối hợp chặt chẽ giữa Ban Giám đốc và Ban Giáo sư, trường Lasan Đức Minh luôn được phát triển và dần dần hoàn tất thành một trường trung tiểu học với đầy đủ các lớp.

Đến năm 1972 có 14 Sư huynh và 120 vị giáo chức đảm đương các lớp hoạt động sáng chiều, với sĩ số học sinh là 3300, từ lớp 1 đến lớp 12. Tỷ lệ đậu Tú Tài năm 1972 là 78%. 

Tháng 11 năm 1973 trường đã tổ chức kỷ niệm 50 năm thành lập trong niên khóa 1972-1973, đã diễn ra một cách long trọng và tốt đẹp. Các trường bạn đã tận tình giúp vui đông đảo.

Đây là giai đoạn phát triển khá rực rỡ của trường Lasan Đức Minh. Cơ sở vật chất kiện toàn, cơ cấu giảng dạy hoàn chỉnh, hội phụ huynh học sinh nhiệt tâm. Học sinh của trường đã đạt nhiều thành tích nỗi bật trong cả 3 lãnh vực Văn, Thể, Mỹ, gây tiếng vang trong Đô thành Sài gòn.

CÁC VỊ SƯ HUYNH HIỆU TRƯỞNG

                       o Vị Hiệu trưởng tiên khởi, Sư huynh Ilde-phonse đã đem lại cho trường vừa mới khai sáng một đà tiến triển mạnh mẽ.  
                       o Từ 1930 đến 1944 SH Pierre Quý tiếp tục không ngớt công việc phát triển với khả năng đặc biệt của Ngài. Kỷ niệm của Bề trên Pierre vẫn còn sống động trong họ Tân Định.

o SH Jourdain nhiệm kỳ thứ nhứt 1944 - 1945
 

o Kế tiếp là SH Urbain Lựu. Ngài đã có công kiến thiết thêm phòng ốc nhà trường và phân phối các lớp Nhất (Cours Superieurs) tùy theo khả năng cho các học sinh dự thi bằng Tiểu học Việt hoặc “Certificat Francais”.


o SH Émile đã thết lập tường lũy cho khu vực bổn trường được kín đáo và thuận tiện cho việc tổ chức.

o SH Jourdain, từ năm 1951 là vị giám đốc Cộng đoàn các Sư huynh riêng biệt của trường, và từ đây Đức Minh được tách rời khỏi Taberd và độc lập tự trị.

 
o SH Armand tiếp tục công việc với kết quả mỹ mãn trong sự chuyển tiếp từ chương trình Pháp sang chương trình Việt. Ngài chăm lo cho ngôi trường có vẻ sáng sủa và khang trang. Lối cổng vào phía đường Hiền Vương được trải đá tráng nhựa sạch sẽ.
 
o SH Félicien vị hiệu trưởng kế tiếp sau 6 năm hoạt động với tinh thần sáng suốt và cẩn trọng, đã gây rất nhiều uy tín cho nhà trường cũng như ban giáo chức. Ngài cũng đã kiến thiết thêm phòng ốc để đáp ứng nhu cầu cho học sinh ngày thêm đông đảo.



 
o Với SH hiệu trưởng Élie ban trung học đệ nhị cấp bắt đầu khai giảng và phòng ốc càng thêm mới mẻ, cao ráo, sáng sủa. Sau Tết Mậu Thân (1968) khi đồng bào tạm cư đã hồi hương, công việc kiến trúc ngôi nhà mới, với 6 phòng lớp, 3 ở tầng trệt và 3 ở tầng lầu, được hoàn tất mỹ mãn.
 
o SH Gérard Hồ Tấn Phát kế tiếp hoạt động 3 năm. Số học sinh lên tới 3000. Ngôi nhà mới lên thêm một tầng với 3 lớp học. Phòng ở của các SH đã được nới rộng và sửa đổi…
o SH Constance Giai đoạn nhiều sự kiện quan trọng. Niên khóa 1972-1973 trường thực hiện Kỷ yếu đầu tiên. Niên khóa kế tiếp (1973-1974) thực hiện Kỷ yếu lần thứ hai. Trong năm 1973 tổ chức Kỷ niệm 50 năm thành lập trường rất long trọng.
NGUỒN :  http://www.lasan.org/lasan-vietnam/fsc-school-before75/ducminh/ducminh.htm

Các cựu học sinh thành danh tiêu biểu của trường Lasan Đức Minh:

  1. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình (1910-1995) :Tổng giám mục Tổng giáo phận Sàigòn (1960 – 1995);
  2. Nhạc sĩ Ngọc Chánh, nhạc trưởng ban nhạc Shotguns nổi tiếng ở Sàigòn.Tác giả của một số ca khúc nổi tiếng trong đó có “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang” và “Bao Giờ Biết Tương Tư” , nhạc trưởng ban nhạc Shotguns nổi tiếng ở Sàigòn, giám đốc trung tâm sản xuất băng nhạc đầu tiên của miền Nam, trung tâm Khai Sáng, bán nhạc lẻ ở ngay ngã tư Công Lý và đại lộ Lê Lợi, Sàigòn;
  3. Trần Tuấn Anh vô địch bóng bàn quốc gia 10 năm liền .

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975, đã khiến trường phải đóng cửa để làm nơi tiếp nhận các sư huynh từ các nơi về đây lánh nạn. Văn phòng Giám Tỉnh cũng được dời về đây.

Tháng 8 năm 1975, sư huynh Maurice Nguyễn Phú Triều được cử đảm nhận chức vụ Huynh Trưởng Cộng Đoàn và làm hiệu trưởng khi trường khai giảng niên khoá 1975 -1976 vào tháng 9. Đây là niên khoá giao thời, các sư huynh và thầy cô đều mang tâm trạng hoang mang, không biết sẽ phải dạy theo đường lối nào, chương trình nào, mà trong đó có một số nội dung bị cấm. Trong niên khoá này, ngày 9 tháng 12 năm 1975, nhà trường cũng đã phải bàn giao quyền quản trị, trường Lasan Đức Minh sẽ không còn do các sư huynh phụ trách.

Vào niên khoá 1976-1977, tên trường Đức Minh bị khai tử để mang tên mới là Trần Quốc Tuấn và chỉ là trường cấp 3, không còn ban Tiểu học và ban Trung Học đệ nhất cấp. Một số ít sư huynh, thầy cô cũ được tiếp tục dạy học. Các học sinh Đức Minh ban Tiểu học và Trung học đệ nhất cấp được chuyển sang học chung với nữ sinh trường Thiên Phước, láng giềng thân cận. Các học sinh vẫn mang danh học trò Đức Minh, khi đến lớp 10 quay về trường cũ.
Thế rồi tên trường mới Trần Quốc Tuấn cũng không thọ quá 3 năm để biến thành một trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ cho tới ngày nay.
Kỷ Yếu 90 năm Lasan Đức Minh- Lịch sử thành lập trường.

Trình bày tổng hợp các tài liệu

TRƯỜNG LASAN ĐỨC MINH
Hẻm 146 Đường Hiền Vương
Quận 3, Sàigòn

Trường Lasan Đức Minh là một trường học tư thục gồm có các lớp Tiểu học và Trung học đệ nhị cấp, thuộc về Hội truyền giáo Lasan.

Theo tài liệu [1,2] : Trường Lasan Đức Minh là trường École Saint Louis De Gonzague đổi tên vào năm 1952 để tưởng niệm đến Thánh Tổ phụ lập Dòng và Á Thánh Tử đạo Phillipe Minh.

Trường École Saint Louis De Gonzague được xây vào năm 1923 trên một khu đất nằm trong một đường hẻm trên đường Mayer (sau là đường Hiền Vương), gần ngã tư với đường Paul Blanchy (sau là đường Hai Bà Trưng) thuộc họ đạo Tân Định (Xem Phụ đề 1 về Lược sử Giáo xứ Tân Định). Trường được khánh thành ngày 18 tháng 11 năm 1923 bởi Đức Giám Mục Quinton địa phận Sàigòn.

Đường Hiền Vương (mũi tên đỏ) hẻm vào trường Lasan Đức Minh, đường Hai Bà Trưng (mũi tên xanh) mặt tiền nhà thờ Tân Định.

Một tài liệu khác [3] viết là tiền thân của trường Lasan Đức Minh là trường Thánh Michel (Saint Michel). Điều đáng tiếc là tài liệu này không có viết chi tiết về trường Thánh Michel.Trong tài liệu này, người ta chỉ thấy đoạn văn sau đây :“Ngày 1 tháng 3 năm 1902, một bản khế ước được ký kết giữa đức cha Lucien Mossard , giám mục hiệu tòa Médée, đại diện tông tòa hành xử nhân danh Hội thừa sai địa phận Tây Đàng Trong và sư huynh Ivarch Louis, giám tỉnh miền Đông Dương, hành xử nhân danh Dòng các sư huynh trường Ki-tô, trụ sở tại 27 đường Oudinot, Paris, với nội dung trao cho các sư huynh khu đất và các khu nhà Tiểu chủng viện cũ của Tân Định, bao gồm cô nhi viện, công trình phục vụ trẻ câm điếc và nhà ngoại trú”.

(Phụ chú : Sư huynh Ivarch Louis là hiệu trưởng cuối cùng của trường Collège d’Adran và hiệu trưởng của trường Taberd từ năm 1890 đến 1898. Xem thêm chi tiết trong bài Collège d’Adran Trường La San Taberd của cùng tác giả).

Theo tài liệu [4] : “Ba mươi năm sau ngày khai khóa Đại chủng viện Giuse Sàigòn , năm thứ 7 thời vua Thành Thái, trường Tiểu chủng viện An Đức (quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre) chính thức khai giảng đầu năm 1896, thâu nhận được 76 tiểu chủng sinh do Cha Ernest điều khiển. Nhưng nơi đây khí hậu không tốt. Trong vòng một năm các chú bị cúm hai lần, buộc lòng Tiểu chủng viện phải chuyển về Tân Định.

Đầu tháng 8 năm 1898, Đức cha Depierre đã khánh thành cơ sở Tân Định và đặt tên là Tiểu chủng viện Thánh Louis De Gonzague. Tiểu chủng viện này nằm trên một khoảnh đất cao ráo, rộng rãi thuộc viện Pasteur ngày nay.

Tiểu chủng viện Louis De Gonzague Tân Định được 40 chủng sinh, nhưng rồi vì không đủ tài chánh, năm 1901, Đức cha Mossard đành ra lệnh đóng cửa cơ sở này”.

Tài liệu [2] cũng có ghi đoạn văn trên nhưng đã bổ túc thêm một vài chi tiết về trường Thánh Michel : “Đó là trường Saint Michel, trường đầu tiên do các sư huynh Lasan tại khu Tân Định, chú trọng việc dạy nghề cho các trẻ em câm điếc. Trường Thánh Michel (Saint Michel), sở hữu của Hội thừa sai và dưới danh nghĩa Hội này nó được cấp phép, được đặt dưới quyền điều hành tối cao của vị đại diện tông tòa”.

Tài liệu [5] cho biết thêm vài chi tiết khởi đầu của trường câm điếc Tân Định : ” Năm 1900, cách Sàigòn 2 cây số, một ngôi trường được cất bằng tre lá được mọc lên giữa một vườn cây dừa mát mẻ, dành cho những người câm điếc. Các trẻ em học nghề mộc, nghề điêu khắc gỗ, đóng giày cũng như học toán, học đọc, học viết. Một công trình khác dành cho người câm điếc được khánh thành ở Lái Thiêu, sau đó di chuyển về Tân Định (Sàigòn) và các sư huynh lãnh điều hành vào năm 1902. Sư Huynh Giám Tỉnh cũng cho mở lớp dạy nghề trong đó”.

Bằng một họa đồ dưới đây, tài liệu [2] chỉ ra địa điểm tọa lạc của trường câm điếc Saint Michel : Ngôi trường tọa lạc tại khu vực viện Pasteur bao chung quanh bởi đường Pasteur, Nguyễn Đình Chiểu, Công Lý và Hiền Vương. Không tìm thấy tài liệu nào nói về giải thể trường này.

Hai tài liệu [6,7] dưới đây thêm vài chi tiết về trường câm-điếc Saint Michel :

Tài liệu [6] : Trường St Michel dành cho trẻ Câm Điếc (Sourds-Muets) tại Tân Định được mở vào ngày 1 tháng 3 năm 1902.Tháng 7 năm 1904, thì dời về Gia Định và hoạt động đến tháng 7 năm 1909 thì giải thể.

(Chú thích: Địa điểm của trường câm điếc viết trong tài liệu [6] trái ngược lại với địa điểm trong tài liệu [5] : Khánh thành ở Lái Thiêu tương phản Tân Định, chuyển về Tân Định (Sàigòn) tương phản Gia Định).

Tài liệu [7] bổ túc thêm chi tiết sau đây về trường : “Trường câm-điếc Saint Michel khai trương mở cửa ngày 13 tháng 8 năm 1906 và đóng cửa năm 1910.Hiệu trưởng đầu tiên của trường là sư huynh Dominique Joseph”.

(Chú thích : Hai tài liệu [6,7] ở trên tuy không có sự đồng nhất về ngày mở cửa trường câm-điếc Saint Michel nhưng năm đóng cửa trường thì gần giống nhau).

Từ những dữ kiện của các tài liệu trên, sau khi so sánh địa điểm tọa lạc cũng như năm tháng thành lập và đóng cửa của trường Saint Michel và năm tháng thành lập trường École Saint Louis De Gonzague, người ta nhận thấy là trường Saint Michel khó có thể là tiền thân của trường Lasan Đức Minh.

(Mở ngoặc : Theo tài liệu [7], có một ngôi trường là trường nội trú Saint Louis Tân Định được khai trương mở cửa ngày 15 tháng 5 năm 1904. Hiệu trưởng đầu tiên của trường này là sư huynh Aglibert Marie. Từ năm 1920 đến 1925, sư huynh Aglibert Marie đảm nhiệm chức vụ dẫn dắt và điều khiển khu vực công giáo Đông Dương- Việt Nam và Cam Bốt (District de l’Indochine: VietNam et Cambodge). Tiếc thay, tài liệu này không có cho chi tiết về trường nội trú này. Có thể nào trường này là trường Câm Điếc ở Lái Thiêu dọn về Tân Định vào năm 1902 (hay 1904) không ? Nó không thể nào là trường École Saint Louis De Gonzague vì lý do trường này được xây 20 năm sau đó, vào năm 1923 mặc dầu mang cùng tên Saint Louis).

Tài liệu tham khảo :

  1. Kỷ Yếu Lasan Đức Minh- Kỷ niệm 50 năm thành lập.
  2. Kỷ Yếu 90 năm Lasan Đức Minh- Lịch sử thành lập trường.
  3. Trường thánh Michel tại Tân Định-(Tiền thân của La san Đức Minh).
  4. Cựu chủng sinh Tiểu Chủng Viện Saigon- Lịch sử Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn.
  5. Dòng Lasan Chương 1 : Tóm tắt lịch sử-lasan.org.
  6. Niên Biểu Tỉnh Dòng Lasan Việt Nam-28/10/2014.
  7. Documents 17450 – D8 f2- Ecoles et Etablishments fondés de l’année 1890 à l’année 1954 – Tóm lược lịch sử dòng Lasan từ năm 1890 đến 1954.